THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA – Phần V
THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA – Phần V
CHƯƠNG NĂM – TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU
164. Trong những kinh nghiệm tâm linh của thánh Margaret Marie Alacoque, cùng với lời tuyên bố mạnh mẽ về tình yêu đối với Chúa Giêsu Kitô, chúng ta gặp thấy một lời mời gọi cá vị thâm sâu và đầy thách thức chúng ta phó thác cuộc sống mình cho Chúa. Sự hiểu biết rằng chúng ta được yêu thương cũng như sự tín thác hoàn toàn của chúng ta vào tình yêu ấy không hề làm suy giảm khao khát đáp trả một cách quảng đại của chúng ta, dù chúng ta yếu đuối và nhiều thiếu sót.
MỘT LỜI THAN THỞ VÀ MỘT YÊU CẦU
165. Bắt đầu với lần hiện ra thứ hai với thánh Margaret Marie, Chúa Giêsu đã nói về nỗi buồn mà Người cảm thấy vì tình yêu lớn lao của Người dành cho nhân loại chỉ nhận lại được “sự vô ơn và thờ ơ”, “sự lạnh lùng và khinh rẻ”. Và Người nói thêm rằng điều này “đối với Ta còn đau đớn hơn tất cả những gì Ta đã phải chịu trong Cuộc Khổ Nạn”.[162]
166. Chúa Giêsu đã nói về cơn khát tình yêu của Người và tiết lộ rằng trái tim Người không dửng dưng với cách chúng ta đáp lại cơn khát đó. Người nói: “Ta khát, với một cơn khát quay quắt được mọi người yêu mến trong Bí tích Thánh Thể, đến nỗi cơn khát này thiêu đốt Ta; và Ta chưa gặp ai cố gắng làm dịu cơn khát của Ta và đáp lại tình yêu của Ta, theo như Ta mong muốn”.[163] Chúa Giêsu kêu gọi tình yêu. Một khi trái tim trung tín nhận ra điều này, phản ứng tự nhiên của nó là yêu mến, không phải là mong muốn nhân lên những hy sinh hoặc chỉ đơn giản là hoàn thành một bổn phận nặng nề: “Tôi đã nhận được từ Thiên Chúa của tôi những ân sủng quá mức từ tình yêu của Người, và tôi cảm thấy được thúc đẩy bởi mong muốn đáp lại một số ân sủng ấy, và đáp lại bằng tình yêu đáp trả tình yêu”.[164] Như vị Tiền Nhiệm của tôi là Đức Lêô XIII đã chỉ ra, qua hình ảnh Thánh Tâm của Người, tình yêu của Chúa Kitô “thúc đẩy chúng ta lấy tình yêu đáp lại tình yêu”.[165]
LÀM LAN RỘNG TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ ĐẾN ANH CHỊ EM CHÚNG TA
167. Chúng ta cần một lần nữa tiếp nhận lời Chúa, và nhờ đó nhận ra rằng phản ứng tốt nhất của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Kitô là yêu thương anh chị em mình. Không có cách nào tuyệt vời hơn để chúng ta lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Kinh thánh đã nói rất rõ về điều này:
“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, tức là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
“Vì toàn bộ lề luật được tóm lại trong một điều răn duy nhất này: ‘Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình’” (Gl 5,14).
“Chúng ta biết rằng mình đã vượt qua sự chết đến sự sống vì chúng ta yêu thương nhau. Bất cứ ai không yêu thương thì ở trong sự chết” (1Ga 3,14).
“Những ai không yêu thương anh chị em mà họ thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không thấy” (1Ga 4,20).
168. Tình yêu thương anh chị em không đơn thuần là thành quả của những nỗ lực nơi chúng ta; nó đòi hỏi sự biến đổi trái tim ích kỷ của chúng ta. Nhận thức này đã dẫn tới lời cầu nguyện quen thuộc: “Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa hơn”. Về phần mình, thánh Phaolô đã thúc giục thính giả của ngài cầu nguyện không phải để có sức mạnh làm việc thiện, nhưng để “có cùng một tâm tư giữa anh em như đã có nơi Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,5).
169. Chúng ta cần nhớ rằng trong Đế quốc Rôma, nhiều người nghèo, người nước ngoài và những người khác sống ở rìa xã hội đã được các Kitô hữu tôn trọng, yêu mến và chăm sóc. Điều này giải thích tại sao hoàng đế bội giáo Julian, trong một lá thư của mình, đã thừa nhận rằng một lý do khiến những người Kitô hữu được tôn trọng và bắt chước là sự trợ giúp họ dành cho người nghèo và những người xa lạ, những người thường bị thờ ơ và coi thường. Đối với Julian, thật không thể chấp nhận việc những Kitô hữu mà ông khinh thường, “ngoài việc cấp dưỡng những người của họ, còn cấp dưỡng những người nghèo và người thiếu thốn của chúng ta, những người không nhận được sự giúp đỡ nào từ chúng ta”.[166] Do đó, hoàng đế nhấn mạnh nhu cầu thành lập các tổ chức từ thiện để cạnh tranh với các tổ chức của các Kitô hữu và qua đó giành được sự tôn trọng của xã hội: “Cần phải thiết lập nhiều cơ sở từ thiện tại mỗi thành phố để những người nhập cư có thể hưởng lòng nhân ái của chúng ta… và khiến người Hy lạp quen với những việc làm quảng đại như vậy”.[167] Julian đã không đạt được mục tiêu của mình, rõ ràng vì đằng sau những công việc đó không có gì có thể so sánh được với lòng bác ái của Kitô giáo vốn tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người.
170. Bằng cách nối kết với những tầng lớp thấp kém nhất của xã hội (x. Mt 25,31-46), “Chúa Giêsu đã mang đến sự mới mẻ lớn lao là nhìn nhận phẩm giá của mọi người, đặc biệt những người bị coi là ‘tồi tệ’. Nguyên tắc mới này trong lịch sử loài người – nhấn mạnh rằng các cá nhân thậm chí còn ‘xứng đáng’ hơn với sự tôn trọng và yêu thương của chúng ta khi họ yếu đuối, bị khinh thường, hoặc đau khổ, thậm chí đến mức mất đi ‘hình ảnh’ con người – đã thay đổi bộ mặt của thế giới. Nó đã mang lại sức sống cho các tổ chức chăm sóc những người trong hoàn cảnh không may mắn, như trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già neo đơn, người bệnh tâm thần, người mắc bệnh nan y hoặc dị tật nghiêm trọng, và những người sống trên đường phố”.[168]
171. Khi chiêm ngắm trái tim bị đâm thâu của Chúa, Đấng “đã mang lấy những yếu đuối của chúng ta và gánh lấy những bệnh hoạn của chúng ta” (Mt 8,17), chúng ta cũng được thúc đẩy để chú ý hơn đến những đau khổ và nhu cầu của người khác, và được củng cố trong những nỗ lực của chúng ta để tham gia vào công cuộc giải phóng của Người, như những khí cụ lan truyền tình yêu của Người.[169] Khi chúng ta suy ngẫm về sự tự hiến của Chúa Kitô vì lợi ích của mọi người, chúng ta tự nhiên được thúc đẩy tự hỏi tại sao chúng ta lại không sẵn sàng hiến mạng sống mình cho người khác: “Chúng ta biết tình yêu là gì, đó là Người đã hiến mạng sống vì chúng ta – và chúng ta cũng phải hiến mạng sống cho nhau” (1Ga 3,16).
NHỮNG VANG ÂM TRONG LỊCH SỬ LINH ĐẠO
172. Mối kết hợp giữa lòng sùng kính trái tim Chúa Giêsu và sự dấn thân cho anh chị em của chúng ta là yếu tố thường hằng trong lịch sử linh đạo Kitô giáo. Chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ.
Là một nguồn nước cho người khác uống
173. Bắt đầu với Origen, nhiều Giáo phụ đã suy tư về câu Phúc Âm Gioan 7,38 – “từ trái tim của Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” – ám chỉ những người đã uống Chúa Kitô và đặt lòng tin vào Người. Sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô không chỉ có nghĩa là thỏa mãn cơn khát của chính chúng ta, mà còn biến chúng ta thành những mạch nước hằng sống cho người khác. Origen đã viết rằng Chúa Kitô thực hiện lời hứa của Người bằng cách làm cho những nguồn nước trong lành tuôn trào trong chúng ta: “Linh hồn con người, được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, có thể chứa đựng và tuôn trào ra những giếng, những con suối và những dòng sông”.[170]
174. Thánh Ambrôsiô khuyên nên uống thật sâu Chúa Kitô, “để nguồn nước tuôn trào sự sống vĩnh cửu có thể tràn ngập trong bạn”.[171] Marius Victorinus xác tín rằng Chúa Thánh Thần trao ban chính Ngài dồi dào đến nỗi “bất kỳ ai đón nhận Ngài đều trở thành một trái tim tuôn trào những dòng nước sự sống”.[172] Thánh Augustinô coi dòng nước chảy ra từ người tin này là lòng nhân từ.[173] Thánh Tôma Aquinô khẳng định rằng bất cứ khi nào ai đó “mau mắn chia sẻ những ân huệ khác nhau nhận được từ Thiên Chúa, thì nước sự sống sẽ chảy ra từ trái tim người ấy”.[174]
175. Mặc dù “hy lễ dâng trên thập giá trong sự vâng phục đầy yêu thương mang lại sự đền bù dồi dào vô hạn cho tội lỗi của nhân loại”,[175] nhưng Giáo hội, được sinh ra từ trái tim Chúa Kitô, sẽ kéo dài và ban phát, trong mọi thời và mọi nơi, những hoa trái của cuộc khổ nạn cứu chuộc duy nhất đó, đưa dẫn những con người nam nữ đến sự kết hợp trực tiếp với Chúa.
176. Trong trái tim của Giáo hội, sự trung gian của Đức Maria – với tư cách là người chuyển cầu và là Mẹ của chúng ta – chỉ có thể được hiểu là “một sự tham dự vào nguồn duy nhất, đó là sự trung gian của chính Chúa Kitô”,[176] Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Vì lý do này, “Giáo hội không ngần ngại tuyên xưng vai trò phụ thuộc của Đức Maria”.[177] Lòng sùng kính trái tim Đức Mẹ không hề làm giảm đi sự tôn thờ duy nhất dành cho trái tim Chúa Kitô, mà đúng hơn, làm tăng thêm sự tôn thờ này: “Chức năng của Đức Maria là Mẹ của nhân loại không hề làm lu mờ hay làm mất dấu vết sự trung gian độc nhất của Chúa Kitô, mà đúng hơn, cho thấy sức mạnh của sự trung gian này”.[178] Nhờ những ân sủng dồi dào tuôn chảy từ cạnh sườn mở ra của Chúa Kitô, theo những cách khác nhau, Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria và tất cả các tín hữu trở thành những dòng nước sự sống. Theo cách này, Chúa Kitô biểu lộ vinh quang của Người trong và qua sự nhỏ bé của chúng ta.
Tình huynh đệ và thần bí
177. Thánh Bênađô, khi khuyên chúng ta kết hợp với trái tim Chúa Kitô, đã dựa vào sự phong phú của lòng sùng kính này để kêu gọi một sự hoán cải đặt nền trên tình yêu. Bênađô tin rằng tình cảm của chúng ta, vốn bị khống chế bởi những lạc thú, vẫn có thể được biến đổi và giải thoát, không phải bằng sự tuân theo cách mù quáng một lệnh truyền, mà là bằng cách đáp lại tình yêu tuyệt vời của Chúa Kitô. Cái ác bị khuất phục bởi cái thiện, bị chinh phục bởi sự bùng nở của tình yêu: “Hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của bạn với tình cảm sâu xa và trọn vẹn nhất của trọn trái tim bạn; hãy yêu Ngài với toàn tâm toàn ý; hãy yêu Ngài với hết sức mình, đến nỗi bạn ngay cả không sợ chết vì yêu Ngài… Tình cảm của bạn dành cho Chúa Giêsu phải vừa ngọt ngào vừa thân mật, để chống lại những cám dỗ ngọt ngào của cuộc sống xác thịt. Sự ngọt ngào chinh phục sự ngọt ngào, như một chiếc đinh khui ra một chiếc đinh khác”.[179]
178. Thánh Phanxicô Salêsiô đặc biệt ấn tượng với những lời của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng tôi; vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Ngay cả trong những điều đơn giản và bình thường nhất, ngài nói, chúng ta cũng có thể “đánh cắp” trái tim của Chúa. “Những ai muốn phục vụ Người một cách đúng đắn phải chú ý không chỉ đến những điều lớn lao và quan trọng, mà cả những điều tầm thường và nhỏ bé, vì bằng cả hai cách, chúng ta có thể giành được trái tim và tình yêu của Người… Tôi muốn nói đến những hành động kiên nhẫn hàng ngày, cơn đau đầu, cơn đau răng, cơn cảm lạnh nặng; những phiền phức linh tinh bởi gười chồng hay người vợ, chiếc ly vỡ, chiếc nhẫn, chiếc khăn tay, chiếc găng tay bị lạc mất; sự càm ràm của người hàng xóm; sự cố gắng đi ngủ sớm để dậy sớm mà cầu nguyện hoặc đi lễ, sự rụt rè mắc cỡ mà một số người cảm thấy khi công khai cho thấy mình có đạo… Hãy tin chắc rằng tất cả những sự chịu đựng này, dù nhỏ bé đến đâu, nếu được chấp nhận với tấm lòng, sẽ làm đẹp lòng Chúa nhất”.[180] Tuy nhiên, cuối cùng, sự đáp trả của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Kitô được thể hiện qua tình yêu đối với người lân cận: “một tình yêu vững chắc, thường xuyên, ổn định, không chấp những chuyện vặt vãnh hay vị thế của người ta trong cuộc sống, sự cứng cỏi hoặc sự thù địch của người ta… Chúa chúng ta yêu thương chúng ta không ngừng, Người chịu đựng rất nhiều khuyết điểm và sai sót của chúng ta. Chính vì thế, chúng ta phải cư xử như vậy với anh chị em của mình, không bao giờ mệt mỏi khi chịu đựng họ”.[181]
179. Thánh Charles de Foucauld đã cố gắng noi gương Chúa Giêsu bằng cách sống và hành động như Người đã làm, trong một cố gắng thường xuyên để làm những gì mà Chúa Giêsu sẽ làm ở hoàn cảnh tương tự. Chỉ bằng cách trở nên đồng hình đồng dạng với những tình cảm của trái tim Chúa Kitô, Charles mới có thể đạt được mục tiêu này cách trọn vẹn. Ở đây chúng ta cũng gặp thấy ý tưởng về “tình yêu đáp trả tình yêu”. Charles nói: “Tôi mong muốn được đau khổ để đáp trả tình yêu bằng tình yêu, để bắt chước Chúa… để bước vào công trình của Người, để hiến dâng chính mình cùng với Người, hiến dâng sự trống rỗng của mình, như một hy lễ, như một hiến tế, để thánh hóa con người”.[182] Khát vọng mang tình yêu của Chúa Giêsu đến với người khác, tầm nhìn sứ mạng của Charles hướng đến những người nghèo nhất và bị lãng quên nhất trên thế giới… đã thúc đẩy ngài lấy biểu tượng cho mình là những từ “Iesus-Caritas”, với hình ảnh trái tim Chúa Kitô được đặt dưới một thánh giá.[183] Đây cũng không phải là một quyết định dễ dàng: “Với tất cả sức lực của mình, tôi cố gắng giới thiệu và chứng minh cho những người anh em lạc lối tội nghiệp này rằng đạo của chúng ta hoàn toàn là lòng bác ái, là tình huynh đệ, và biểu tượng của nó là một trái tim”.[184] Ngài muốn định cư với những anh em khác “ở Marốc, nhân danh trái tim Chúa Giêsu”.[185] Theo cách này, công việc loan báo Tin Mừng của các anh em có thể lan tỏa ra bên ngoài: “Lòng bác ái phải lan tỏa từ tình huynh đệ của chúng ta, cũng như nó lan tỏa từ trái tim Chúa Giêsu”.[186] Khát vọng này dần dần biến ngài thành một “người anh em hoàn vũ”. Để mình được khuôn đúc bởi trái tim Chúa Kitô, ngài tìm cách đón nhận toàn thể nhân loại đau khổ trong trái tim đầy tình huynh đệ của mình: “Trái tim của chúng ta, giống như trái tim của Chúa Giêsu, phải ôm trọn tất cả mọi người nam và nữ”.[187] “Tình yêu của trái tim Chúa Giêsu đối với mọi người nam nữ, tình yêu mà Người thể hiện trong cuộc khổ nạn của Người, đó là điều chúng ta cần có vì tất cả mọi người”.[188]
180. Cha Henri Huvelin, vị linh hướng của thánh Charles de Foucauld, đã nhận xét rằng “khi Chúa ngự trong một tâm hồn, Người ban cho nó những tình cảm như vậy, và tâm hồn ấy vươn tới những người anh chị em bé nhỏ nhất của chúng ta. Đó chính là trái tim của thánh Vincent de Paul… Khi Chúa ngự trong tâm hồn một linh mục, Người thúc đẩy linh mục ấy vươn tới những người nghèo”.[189] Điều quan trọng là phải nhận ra rằng lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Vincent, như Cha Huvelin mô tả, cũng được nuôi dưỡng bởi lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô. Thánh Vincent thúc giục các anh em mình “tìm thấy trong trái tim Chúa chúng ta một lời an ủi cho người bệnh nghèo”.[190] Nếu lời đó có sức thuyết phục, thì trước tiên trái tim của chính chúng ta hẳn phải được thay đổi bởi tình yêu và sự dịu dàng của trái tim Chúa Kitô. Thánh Vincent thường diễn tả niềm xác tín này trong các bài giảng và các lời khuyên của ngài, và nó đã trở thành một đặc nét trong Hiến chương của Hội dòng ngài: “Chúng ta phải nỗ lực hết sức để học bài học sau đây, cũng được Chúa Kitô dạy: ‘Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng’. Chúng ta nên nhớ, chính Người đã nói rằng với sự hiền lành, chúng ta sẽ được thừa hưởng Đất làm cơ nghiệp. Nếu chúng ta hành động như vậy, chúng ta sẽ chinh phục được người ta quay về với Chúa. Song điều đó sẽ không xảy ra nếu chúng ta đối xử với mọi người một cách gay gắt hay khắc nghiệt”.[191]
VIỆC ĐỀN BÙ: XÂY DỰNG TRÊN NHỮNG ĐỔ NÁT
181. Tất cả những gì đã nói cho đến nay giúp chúng ta hiểu được dưới ánh sáng lời Chúa ý nghĩa đúng đắn của “sự đền bù” trái tim Chúa Kitô mà Chúa mong đợi chúng ta “dâng hiến”, với ân sủng của Người trợ giúp. Vấn đề này đã được thảo luận nhiều, nhưng thánh Gioan Phaolô II đã trao cho chúng ta một câu trả lời rõ ràng, có thể hướng dẫn các Kitô hữu ngày nay hướng tới một tinh thần đền bù phù hợp hơn với Phúc Âm.
Ý nghĩa xã hội của việc đền tạ trái tim Chúa Kitô
182. Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng bằng cách cùng nhau phó thác cho trái tim Chúa Kitô, “trước những đổ nát chất chồng do hận thù và bạo lực, thì nền văn minh tình yêu mà ta khao khát và Vương quốc của trái tim Chúa Kitô có thể được xây dựng”. Điều này rõ ràng đòi hỏi chúng ta phải “kết hợp tình yêu con thảo đối với Thiên Chúa và tình yêu tha nhân”, và đây là “sự đền tạ thực sự mà trái tim Đấng Cứu Thế yêu cầu”.[192] Trong sự kết hợp với Chúa Kitô, giữa những đống đổ nát mà chúng ta đã để lại trên thế giới này do tội lỗi của mình, chúng ta được kêu gọi xây dựng một nền văn minh mới của tình yêu. Đó chính là ý nghĩa của việc đền tạ như trái tim Chúa Kitô muốn chúng ta làm. Giữa sự tàn phá do sự dữ gây ra, trái tim Chúa Kitô mong muốn chúng ta hợp tác với Người để khôi phục lại sự tốt lành và vẻ đẹp cho thế giới chúng ta.
183. Mọi tội lỗi đều gây hại cho Giáo hội và xã hội; do đó, “mọi tội lỗi chắc chắn có thể được coi là tội xã hội”, và điều này đặc biệt đúng đối với những tội lỗi “tự bản chất của chúng là một sự tấn công trực tiếp vào người lân cận”.[193] Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng việc lặp đi lặp lại những tội lỗi chống người khác thường củng cố một “cấu trúc tội lỗi” chi phối đến sự phát triển của các dân tộc.[194] Thông thường, đây là một phần của não trạng thống trị vốn coi những gì rõ ràng là sự ích kỷ và sự thờ ơ như điều bình thường hay hợp lý. Điều này sẽ dẫn đến sự tha hóa xã hội: “Một xã hội tha hóa nếu các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu dùng của nó khiến việc trao hiến bản thân và việc thiết lập tình đoàn kết giữa người ta trở nên khó khăn hơn”.[195] Chỉ một chuẩn mực đạo đức thì không giúp chúng ta vạch trần và chống lại được những cấu trúc xã hội tha hóa này, và không hỗ trợ được các nỗ lực trong xã hội nhằm phục hồi và củng cố lợi ích chung. Đúng hơn, chính “sự hoán cải trái tim” của chúng ta mới “đặt ra bổn phận”[196] sửa chữa những cấu trúc này. Sự đáp trả của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Giêsu sẽ dạy ta biết yêu thương.
184. Chính vì sự đền tạ theo Phúc Âm có bao hàm chiều kích xã hội quan trọng này, nên các hành động yêu thương, phục vụ và hòa giải của chúng ta, để thực sự mang ý nghĩa đền bù, cần phải được Chúa Kitô khơi gợi, thôi thúc và trao năng lực. Thánh Gioan Phaolô II cũng ghi nhận rằng “để xây dựng nền văn minh tình thương”,[197] thế giới ngày nay cần trái tim của Chúa Kitô. Sự đền bù của Kitô giáo không thể hiểu đơn giản như một mớ các công trình bên ngoài, dù chúng có thể cần thiết và đôi khi đáng ngưỡng mộ đến mấy. Những công trình này cần một “bí pháp”, một linh hồn, một ý nghĩa mang lại cho chúng sức mạnh, động lực và sự sáng tạo không mệt mỏi. Chúng cần sức sống, ngọn lửa và ánh sáng tỏa ra từ trái tim của Chúa Kitô.
Chữa lành những trái tim bị thương tích
185. Một sự đền bù chỉ bên ngoài thì không đủ, cho thế giới chúng ta hay cho trái tim của Chúa Kitô. Nếu mỗi người chúng ta xem xét tội lỗi của mình và tác động của nó đối với người khác, ta sẽ nhận ra rằng việc sửa chữa những tổn hại đã gây ra cho thế giới này cũng đòi hỏi một mong muốn chữa lành những trái tim bị tổn thương, vì chính đây là nơi xảy ra sự thiệt hại sâu xa nhất, và là nơi mà sự tổn thương gây đau đớn nhất.
186. Tinh thần đền bù, vì thế, “dẫn chúng ta đến hy vọng rằng mọi thương tích đều có thể được chữa lành, dù có sâu đến đâu. Đôi khi, việc đền bù hoàn toàn có vẻ là điều không thể, chẳng hạn khi tài sản hoặc người thân yêu bị mất hoàn toàn, hoặc khi một số tình huống trở nên không thể khắc phục được. Tuy nhiên, ý định đền bù, được cho thấy một cách cụ thể, là điều thiết yếu cho tiến trình hòa giải và vãn hồi sự bình an trong tâm hồn”.[198]
Vẻ đẹp của việc cầu xin tha thứ
187. Ý định tốt là không đủ. Phải có một mong muốn bên trong được thể hiện qua hành động bên ngoài của chúng ta. “Việc đền bù, nếu muốn đích thực của Kitô giáo, tức chạm đến trái tim của người bị xúc phạm chứ không chỉ là một hành động công bằng giao hoán đơn thuần, thì đòi hỏi hai điều: thừa nhận tội lỗi của mình và cầu xin sự tha thứ… Chính từ sự chân thành thừa nhận điều sai trái đã gây ra cho anh chị em mình, và chính từ nhận thức chân thành và sâu sắc rằng tình yêu đã bị tổn hại, thì mong muốn đền bù mới nảy sinh được”.[199]
188. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng việc nhìn nhận tội lỗi của mình trước người khác là hạ thấp hay xúc phạm đến nhân phẩm của mình. Ngược lại, nó đòi hỏi chúng ta phải ngừng lừa dối chính mình và thừa nhận sự thật về quá khứ của mình, bị tội lỗi làm hoen ố, nhất là trong những trường hợp chúng ta gây tổn thương các anh chị em khác. “Tự cáo tội là một phần của sự khôn ngoan Kitô giáo… Điều này làm đẹp lòng Chúa, vì Chúa đón nhận một trái tim thống hối ăn năn”.[200]
189. Một phần của tinh thần đền bù này là tập quán xin lỗi anh chị em chúng ta, điều này thể hiện sự cao thượng đáng quí ngay trong thân phận yếu đuối của con người chúng ta. Xin lỗi là một cách chữa lành các mối tương quan, vì nó “mở lại cuộc đối thoại và thể hiện ý chí thiết lập lại mối dây bác ái huynh đệ… Nó chạm đến trái tim anh chị em mình, mang lại an ủi và thúc đẩy việc chấp nhận tha thứ như được yêu cầu. Ngay cả khi không thể sửa chữa được điều vốn là chuyện đã rồi, thì tình yêu vẫn luôn có thể được tái sinh, làm cho sự tổn thương trở nên dễ chịu hơn”.[201]
190. Một trái tim có khả năng thống hối sẽ lớn lên trong tình huynh đệ và tình liên đới. Nếu không, “chúng ta sẽ thoái lui và cằn cỗi bên trong”, trong khi đó, nếu “việc cầu nguyện của chúng ta đơn giản và sâu sắc hơn, đặt nền trên thái độ tôn thờ và ngạc nhiên trước sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta sẽ lớn lên và trưởng thành. Chúng ta trở nên ít gắn bó với bản thân mình, mà gắn bó hơn với Chúa Kitô. Mang tinh thần nghèo khó, chúng ta đến gần hơn với người nghèo, những người được ưu ái nhất của Thiên Chúa”.[202] Điều này dẫn đến một tinh thần đền bù thực sự, vì “những người cảm thấy thống hối trong lòng sẽ ngày càng cảm thấy mình là anh chị em với tất cả những người tội lỗi rên thế giới; khi từ bỏ thái độ trịch thượng và những xét đoán khắc nghiệt của mình, họ tràn đầy một khao khát cháy bỏng là thể hiện tình yêu và việc đền bù”.[203] Cảm thức liên đới nảy sinh từ lòng thống hối cũng giúp cho sự hòa giải có thể diễn ra. Người có khả năng thống hối, “thay vì cảm thấy tức giận và trách móc trước những sai hỏng của anh chị em mình, thì sẽ biết khóc vì tội lỗi của họ. Có một sự đảo ngược, trong đó khuynh hướng tự nhiên là nhân nhượng bản thân và cứng cỏi với người khác sẽ bị đảo ngược, để nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta trở nên nghiêm khắc với bản thân và biết xót thương người khác”.[204]
ĐỀN TẠ: ĐÓ LÀ MỞ RỘNG TRÁI TIM CỦA ĐỨC KITÔ
191. Có một cách tiếp cận khác, có tính bổ sung, đối với sự đền bù, cho phép chúng ta đặt nó vào một mối tương quan trực tiếp hơn với trái tim Chúa Kitô, mà không loại trừ khía cạnh cam kết cụ thể đối với anh chị em của chúng ta.
192. Ở một chỗ khác, tôi đã gợi ý rằng “một cách nào đó, Thiên Chúa đã tìm cách giới hạn chính mình, để cho nhiều điều chúng ta nghĩ là sự dữ, nguy hiểm hay là những nguồn gây đau khổ, thì thực tế đó là một phần của những cơn đau sinh nở mà Ngài dùng để kéo chúng ta vào hành động cộng tác với Đấng Sáng Tạo”.[205] Sự cộng tác này từ phía chúng ta có thể cho phép sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa lan rộng trong đời sống của chúng ta và trên thế giới, trong khi sự từ chối hoặc thờ ơ của chúng ta có thể ngăn cản điều đó. Một số bản văn Kinh Thánh diễn tả điều này theo cách ẩn dụ, như khi Chúa kêu lên: “Ước gì ngươi trở về cùng Ta, hỡi Israel!” (x. Gr 4,1). Hoặc khi đối mặt với sự từ chối của dân Ngài, Chúa nói: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,8).
193. Ngay cả dù không thể nói về sự đau khổ mới nơi Đức Chúa vinh quang, thì “mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô… và tất cả những gì là sự thật nơi Chúa Kitô – tất cả những việc Người đã làm và những đau khổ Người đã chịu cho mọi người – đều tham dự vào vĩnh cửu thần linh, và do đó vượt qua mọi thời gian, trong khi được làm cho hiện diện trong mọi thời gian”.[206] Chúng ta có thể nói rằng Người đã cho phép vinh quang lớn lao nơi sự phục sinh của Người bị giới hạn, và cho phép sự lan tỏa của tình yêu bao la và cháy bỏng của Người bị kiềm chế, để chừa chỗ cho chúng ta tự do cộng tác với trái tim Người. Việc chúng ta từ chối tình yêu của Người dựng lên một rào cản đối với món quà ân sủng đó, trong khi việc chúng ta tin tưởng đón nhận nó sẽ mở ra một không gian, một kênh truyền cho phép nó tràn vào trái tim chúng ta. Sự từ chối hay thờ ơ của chúng ta sẽ hạn chế những tác động của quyền năng Người và hạn chế hoa trái của tình yêu Người trong chúng ta. Chính Người muốn rằng nếu Người không gặp được sự cởi mở và tín thác nơi tôi, tình yêu của Người sẽ bị tước mất sự lan tỏa của nó, vốn duy nhất và không thể lặp lại, trong cuộc sống của tôi và trong thế giới này, nơi Người kêu gọi tôi cho phép Người hiện diện. Một lần nữa, điều này không do bởi bất kỳ sự yếu đuối nào từ phía Người mà đúng hơn là bởi sự tự do vô hạn của Người, sức mạnh huyền nhiệm của Người, và tình yêu hoàn hảo của Người dành cho mỗi người chúng ta. Khi sức mạnh của Thiên Chúa được mặc khải trong cái yếu đuối của sự tự do con người chúng ta, thì “chỉ có đức tin mới có thể nhận hiểu điều đó”.[207]
194. Thánh Margaret Marie kể lại rằng trong một lần hiện ra, Chúa Kitô đã nói về tình yêu mãnh liệt của trái tim Người đối với chúng ta, theo đó, “do không thể kiềm chế ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của Người, Người phải lan tỏa nó ra khắp nơi”.[208] Bởi vì Chúa, Đấng có thể làm mọi sự, trong sự tự do thần linh Người muốn yêu cầu chúng ta hợp tác, nên việc đền tạ có thể được hiểu là việc chúng ta tháo gỡ những cản trở mà ta đặt ra đối với sự mở rộng tình yêu của Chúa Kitô trong thế giới, do sự thiếu tin tưởng, thiếu lòng biết ơn và thiếu hy sinh của chúng ta.
Một dâng hiến cho tình yêu
195. Để có thể suy tư sâu hơn về mầu nhiệm này, chúng ta một lần nữa quay lại với linh đạo sáng ngời của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Têrêsa biết rằng tại một số nơi đã từng phát triển một hình thức đền tạ cực đoan, dựa trên một sự sẵn lòng quên mình để hy sinh cho người khác, và theo một nghĩa nào đó trở thành “cột thu lôi” những hình phạt của công lý Thiên Chúa. Têrêsa nói: “Tôi nghĩ về những linh hồn dâng mình như hiến vật cho của công lý Thiên Chúa để gỡ những hình phạt dành cho các tội nhân, và tự mình nhận chịu các hình phạt ấy”.[209] Tuy nhiên, dù một hiến dâng như vậy có vẻ lớn lao và quảng đại đến đâu, Têrêsa cũng không thấy nó thuyết phục lắm: “Tôi không hề cảm thấy bị thu hút để làm như thế”.[210] Việc nhấn mạnh quá mức vào công lý của Thiên Chúa cuối cùng có thể dẫn đến quan niệm rằng sự hy sinh của Chúa Kitô cách nào đó vẫn không đầy đủ hoặc chỉ có hiệu quả một phần, hoặc lòng thương xót của Người không đủ mạnh mẽ.
196. Với sự hiểu biết tâm linh sâu sắc, thánh Têrêsa đã khám phá ra rằng chúng ta có thể hiến dâng chính mình theo một cách khác, không cần phải thỏa mãn công lý của Thiên Chúa nhưng bằng cách cho phép tình yêu vô hạn của Chúa lan tỏa tự do: “Lạy Thiên Chúa của con! Tình yêu bị rẻ rúng của Chúa có đóng kín trong trái tim Chúa không? Con nghĩ rằng dường như nếu Chúa tìm thấy những linh hồn hiến dâng chính mình như hiến vật chịu sát tế cho tình yêu của Chúa, Chúa sẽ mau mắn đón nhận họ; song con vẫn nghĩ rằng Chúa cũng sẽ vui lòng không kìm hãm những đợt sóng dịu dàng vô tận trong Chúa”.[211]
197. Mặc dù không cần thêm bất cứ điều gì vào hy lễ cứu chuộc duy nhất của Chúa Kitô, nhưng vẫn đúng là việc chúng ta chủ động từ chối có thể ngăn cản trái tim Chúa Kitô lan tỏa “những đợt sóng dịu dàng vô tận của Người” trên thế giới này. Một lần nữa, sở dĩ thế bởi vì Chúa muốn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hơn cả công lý của Thiên Chúa, chính sự kiện rằng tình yêu của Chúa Kitô có thể bị từ chối đã làm phiền não trái tim của thánh Têrêsa, bởi vì đối với Têrêsa, công lý của Thiên Chúa chỉ được hiểu trong ánh sáng tình yêu của Ngài. Như chúng ta đã thấy, Têrêsa đã chiêm ngắm tất cả sự hoàn hảo của Thiên Chúa qua lòng thương xót của Ngài, và do đó thấy những sự hoàn hảo ấy được chuyển hóa và rạng ngời tình yêu. Theo lời của Têrêsa, “đối với con ngay cả công lý của Thiên Chúa (và điều này có lẽ còn hơn cả những điều khác) dường như cũng được mặc lấy tình yêu”.[212]
198. Đây là nguồn gốc Hành động Dâng Hiến của Têrêsa, không phải dâng hiến cho công lý của Thiên Chúa mà cho tình yêu thương xót của Người. “Con xin hiến dâng chính mình như một hiến lễ toàn thiêu cho tình yêu thương xót của Chúa, xin Chúa thiêu đốt con không ngừng, để những làn sóng dịu dàng vô tận bị giam hãm trong Chúa sẽ tràn vào tâm hồn con, và nhờ đó con có thể được tuẫn đạo để làm chứng cho tình yêu của Chúa”.[213] Điều quan trọng là phải nhận ra rằng, đối với Têrêsa, điều này không chỉ là cho phép trái tim Chúa Kitô lấp đầy trái tim mình – qua sự tin tưởng hoàn toàn của mình – với vẻ đẹp của tình yêu Người, mà còn là cho phép tình yêu đó, thông qua cuộc sống của mình, lan tỏa đến những người khác và nhờ đó biến đổi thế giới. Một lần nữa, theo lời Têrêsa: “Thưa Mẹ, giữa lòng Giáo hội, con sẽ là tình yêu… và như vậy giấc mơ của con sẽ thành hiện thực”.[214] Hai khía cạnh trên được gắn kết không thể tách rời.
199. Chúa đã chấp nhận sự dâng hiến của Têrêsa. Chúng ta thấy ngay sau đó, thánh Têrêsa tuyên bố rằng ngài cảm thấy một tình yêu mãnh liệt đối với người khác và khẳng định rằng tình yêu đó đến từ trái tim của Chúa Kitô, được kéo dài qua ngài. Vì vậy, Têrêsa nói với chị gái Léonie: “Em yêu chị gấp ngàn lần trìu mến hơn những người chị em bình thường yêu mến nhau, vì em có thể yêu chị bằng trái tim của lang quân trên trời của chúng ta”.[215] Sau đó, Têrêsa đã viết cho Maurice Bellière: “Tôi muốn bạn hiểu được sự dịu dàng của trái tim Chúa Giêsu, điều mà Người mong đợi nơi bạn!”[216]
Chính trực và Hài hòa
200. Anh chị em thân mến, tôi đề nghị rằng chúng ta hãy phát triển cách đền tạ này, nói cách ngắn gọn, đó là trao cho trái tim Chúa Kitô một khả năng mới để lan tỏa trong thế giới này ngọn lửa tình yêu nồng cháy và nhân từ của Người. Đành rằng đúng là đền tạ bao hàm mong muốn “bồi thường cho những tổn thương đã gây ra đối với Tình Yêu phi tạo, dù là do sự vô tâm hay do xúc phạm nghiêm trọng”,[217] cách phù hợp nhất để làm điều này đối với tình yêu của chúng ta, đó là trao tặng Chúa một khả năng lan tỏa, để đền bù cho tất cả những lần tình yêu của Người bị từ chối hoặc tẩy chay. Điều này bao gồm nhiều hơn là chỉ đơn thuần “an ủi” Chúa Kitô mà chúng ta đã nói ở chương trước; nó được thể hiện trong các hành động yêu thương huynh đệ qua đó chúng ta chữa lành các vết thương của Giáo hội và của thế giới. Theo cách này, chúng ta trao cho năng lực chữa lành của trái tim Chúa Kitô những cách mới để thể hiện.
201. Những hy sinh và đau khổ được đòi hỏi bởi các hành động yêu thương tha nhân này sẽ kết hợp chúng ta với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Theo đó, “qua sự đóng đinh thần nhiệm mà thánh Tông đồ nói đến, chúng ta sẽ nhận được hoa trái dồi dào của sự xoa dịu và đền tội, cho chính chúng ta và cho người khác”.[218] Chỉ có Chúa Kitô cứu chúng ta bằng lễ dâng của Người trên thập giá; chỉ có Người cứu chuộc chúng ta, vì “chỉ có một Thiên Chúa; cũng chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, là con người Chúa Kitô Giêsu, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” (1Tm 2,5-6). Sự đền tạ mà chúng ta dâng hiến là một sự tham gia được Người tự do chấp nhận vào tình yêu cứu chuộc của Người và hy lễ duy nhất của Người. Như vậy, chúng ta hoàn thành nơi thân xác chúng ta “những gì còn thiếu trong các đau khổ của Chúa Kitô vì lợi ích của Thân thể Người, tức là Giáo hội” (Cl 1,24); và chính Chúa Kitô kéo dài qua chúng ta những hiệu quả của sự hiến dâng trọn vẹn và đầy yêu thương của Người.
202. Thường thì những đau khổ của chúng ta liên quan đến bản ngã bị tổn thương của chính chúng ta. Sự khiêm nhường của trái tim Chúa Kitô chỉ cho chúng ta con đường hạ mình. Thiên Chúa đã chọn đến với chúng ta trong sự hạ mình và bé mọn. Cựu Ước đã cho chúng ta thấy, bằng nhiều ẩn dụ khác nhau, một Thiên Chúa đi vào giữa lịch sử và để cho dân Ngài từ chối Ngài. Tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện thực tế giữa cuộc sống thường nhật của dân Người, kêu xin một sự đáp trả, như thể Người đang xin phép để biểu lộ vinh quang của Người. Tuy nhiên, “có lẽ chỉ một lần Chúa Giêsu nhắc đến trái tim của Người, bằng chính lời của Người. Và Người nhấn mạnh đến đặc điểm duy nhất này: ‘hiền lành và khiêm nhường’, như thể nói rằng Người muốn chinh phục chúng ta chỉ bằng cách này”.[219] Khi nói “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29), Người cho chúng ta thấy rằng “Người cần sự bé nhỏ và tự hạ của chúng ta để Người được người ta nhận biết”.[220]
203. Trong những gì chúng ta đã nói, thật quan trọng việc lưu ý đến một số khía cạnh không thể tách rời. Các hành vi yêu thương tha nhân – với sự từ bỏ, quên mình, những đau khổ và cố gắng mà chúng đòi hỏi – chỉ có thể chân thực khi chúng được nuôi dưỡng bằng tình yêu của chính Chúa Kitô. Người giúp chúng ta yêu như Người đã yêu, và theo cách này, Người yêu thương và phục vụ người khác thông qua chúng ta. Người khiêm hạ để thể hiện tình yêu của Người qua các hành động của chúng ta, nhưng ngay cả khi ta làm những việc nhỏ nhất của lòng thương xót, trái tim Người vẫn được tôn vinh và biểu lộ tất cả sự vĩ đại của nó. Một khi trái tim chúng ta đón nhận tình yêu của Chúa Kitô trong sự tin tưởng hoàn toàn, và cho phép ngọn lửa của tình yêu ấy lan tỏa trong cuộc sống mình, chúng ta trở nên có khả năng yêu thương người khác như Chúa Kitô đã yêu, trong sự khiêm nhường và gần gũi với tất cả mọi người. Theo cách này, Chúa Kitô thỏa mãn cơn khát của Người, và bằng một cách ấn tượng Người làm lan tỏa ngọn lửa tình yêu nồng cháy và nhân từ của Người trong chúng ta và qua chúng ta. Làm sao chúng ta có thể không nhận thấy sự hòa hợp kỳ diệu nơi tất cả những điều này?
204. Cuối cùng, để trân trọng lòng sùng kính này trong tất cả sự phong phú của nó, thì dưới ánh sáng của những gì chúng ta đã nói về chiều kích Ba Ngôi của lòng sùng kính này, cần phải nói thêm rằng sự đền bù mà Chúa Kitô thực hiện trong nhân tính của Người được dâng lên Chúa Cha nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần trong mỗi người chúng ta. Do đó, sự đền tạ mà chúng ta dâng lên trái tim Chúa Kitô cuối cùng hướng đến Chúa Cha, Đấng hài lòng khi thấy chúng ta kết hợp với Chúa Kitô bất cứ khi nào chúng ta dâng hiến chính mình nhờ Người, với Người và trong Người.
MANG TÌNH YÊU ĐẾN CHO THẾ GIỚI
205. Sứ điệp Kitô giáo thật hấp dẫn khi được kinh nghiệm và được diễn đạt trong toàn thể tính của nó: không chỉ đơn thuần là nơi ẩn náu cho những ý tưởng đạo đức hay là một cơ hội để tổ chức các nghi lễ ấn tượng. Chúng ta tôn thờ Chúa Kitô kiểu gì nếu chúng ta chỉ hài lòng với một tương quan cá nhân với Người và không quan tâm gì đến việc xoa dịu nỗi đau khổ của người khác hoặc giúp họ sống một cuộc sống tốt đẹp hơn? Liệu ta có làm vui lòng trái tim đã yêu thương chúng ta đến thế không, nếu chúng ta đắm mình trong một kinh nghiệm sùng ngưỡng riêng tư mà bỏ qua những hàm ý của nó đối với xã hội mà chúng ta đang sống? Chúng ta hãy trung thực và đón nhận lời Chúa một cách trọn vẹn. Mặt khác, công việc của chúng ta với tư cách là Kitô hữu để cải thiện xã hội không được làm lu mờ cảm hứng tôn giáo của nó, vì như vậy rốt cuộc là ta tìm kiếm ít hơn cho anh chị em mình so với những gì Thiên Chúa mong muốn ban cho họ. Vì thế, chúng ta nên kết thúc chương này bằng cách nhắc lại chiều kích sứ mạng thừa sai của tình yêu đối với trái tim Chúa Kitô.
206. Thánh Gioan Phaolô II nói về chiều kích xã hội của lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô, nhưng cũng nói về “sự đền bù, là sự cộng tác tông đồ trong việc cứu rỗi thế giới”.[221] Do đó, sự dâng mình cho trái tim Chúa Kitô “phải được nhìn trong liên hệ với hoạt động sứ mạng của Giáo hội, vì nó đáp lại mong muốn của trái tim Chúa Giêsu là truyền bá khắp thế giới – xuyên qua các chi thể của Thân thể Người – sự dấn thân trọn vẹn của Người cho Vương quốc Thiên Chúa”.[222] Vì thế, “thông qua chứng tá của các Kitô hữu, tình yêu sẽ được đổ vào trái tim con người, để xây dựng Thân thể Chúa Kitô là Giáo hội, và xây dựng một xã hội của công lý, hòa bình và tình huynh đệ”.[223]
207. Ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng lan tỏa qua tầm vươn ra của sứ mạng Giáo hội, nhằm công bố sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Kitô. Thánh Vincent de Paul đã diễn tả điều này một cách khéo léo khi mời các môn đệ ngài cầu xin Chúa ban “thần khí này, trái tim này thúc bách chúng ta đi khắp mọi nơi, trái tim của Con Thiên Chúa, trái tim của Chúa chúng ta, sai chúng ta đi như Người đã đi… Người sai chúng ta, giống như [các tông đồ], để mang lửa đi khắp nơi”.[224]
208. Thánh Phaolô VI, khi phát biểu với các Hội Dòng chuyên chăm lan truyền lòng sùng kính Thánh Tâm, đã nhận xét như sau: “Không còn nghi ngờ gì nữa, sự dấn thân mục vụ và nhiệt tâm sứ mạng sẽ bùng cháy, nếu các linh mục và cả giáo dân, trong khao khát lan truyền vinh quang của Thiên Chúa, biết chiêm ngắm tấm gương tình yêu vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã biểu lộ cho chúng ta, và hướng các nỗ lực của mình để làm cho mọi người nam nữ được chia sẻ trong sự giàu có khôn tả của Chúa Kitô”.[225] Khi chiêm ngắm Thánh Tâm, ta sẽ thấy sứ mạng là chuyện của tình yêu. Bởi vì mối nguy lớn nhất trong sứ mạng, đó là trong tất cả những điều mình nói và làm, chúng ta không mang lại được một niềm vui gặp gỡ với tình yêu của Chúa Kitô, Đấng ôm lấy và cứu rỗi chúng ta.
209. Sứ mạng, như sự phát tỏa tình yêu của trái tim Chúa Kitô, đòi hỏi các nhà thừa sai – là những người đang yêu và bị Chúa Kitô quyến rũ – cảm thấy có nghĩa vụ phải chia sẻ chính tình yêu đã thay đổi cuộc sống của mình. Họ sẽ sốt ruột khi thời gian bị lãng phí vào việc thảo luận các vấn đề thứ yếu hoặc tập trung vào các chân lý và các quy tắc, bởi vì mối quan tâm lớn nhất của họ là chia sẻ những gì họ đã cảm nghiệm. Họ muốn người khác cảm nhận được lòng tốt và vẻ đẹp của Đấng mà họ yêu dấu, qua những nỗ lực của họ, ngay cả dù ‘lực bất tòng tâm’ đi nữa. Chẳng phải đó là trường hợp của bất kỳ người đang yêu nào sao? Chúng ta có thể lấy ví dụ về những lời mà Dante Alighieri đã cố gắng diễn tả luận lý này của tình yêu:
“Io dico che, pensando al suo valore
amor si dolce si mi si fa sentire,
che s’io allora non perdessi ardire
farei parlando innamorar la gente”.[226]
[“Nghĩ về giá trị của tình yêu, tôi cho rằng
nó làm mình cảm thấy ngọt ngào đến nỗi
nếu mà không mất can đảm,
tôi sẽ lên lời thuyết phục người ta yêu”]
210. Việc có thể nói về Chúa Kitô, bằng chứng tá hay bằng lời nói, nhằm làm cho người khác tìm cách yêu mến Người, đó là mong muốn lớn nhất nơi mọi nhà thừa sai của các linh hồn. Động lực tình yêu này không liên quan gì đến việc chiêu dụ cải đạo; những lời nói của một người yêu không quấy rầy người khác, không đòi hỏi hay bắt buộc, mà chỉ làm cho người khác kinh ngạc trước tình yêu như thế. Với sự tôn trọng hết sức đối với tự do và phẩm giá của họ, người yêu chỉ đơn giản chờ họ tìm hiểu về tình yêu đã lấp đầy cuộc sống của mình bằng niềm vui lớn lao như vậy.
211. Chúa Kitô bảo bạn đừng bao giờ xấu hổ khi nói với người khác – với tất cả thận trọng và tôn trọng – về tình thân hữu giữa bạn với Người. Người yêu cầu bạn dám nói với người khác rằng thật tốt đẹp và tuyệt vời biết bao việc bạn đã gặp Người. “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt thiên hạ, thì Ta cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Đối với một trái tim đang yêu, đây không phải là một nhiệm vụ mà là một nhu cầu không thể cưỡng được: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16). “Trong con như có ngọn lửa bừng cháy, âm ỉ trong xương cốt; con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20,9).
Trong sự hiệp thông phục vụ
212. Chúng ta không nên nghĩ về sứ mạng chia sẻ Chúa Kitô này như một điều gì đó chỉ giữa Chúa Giêsu và tôi. Sứ mạng được kinh nghiệm trong sự hiệp thông với các cộng đoàn của chúng ta và với toàn thể Giáo hội. Nếu chúng ta tách khỏi cộng đoàn, chúng ta sẽ tách khỏi Chúa Giêsu. Nếu chúng ta quay lưng lại với cộng đoàn, tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ trở nên nguội lạnh. Đây là một sự thật và chúng ta đừng bao giờ quên. Tình yêu đối với anh chị em trong các cộng đoàn của chúng ta – dòng tu, giáo xứ, giáo phận và những cộng đoàn khác – là một loại nhiên liệu nuôi dưỡng tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu. Những hành động yêu thương của chúng ta dành cho anh chị em trong cộng đoàn có thể là cách tốt nhất và đôi khi là cách duy nhất để chúng ta làm chứng cho người khác về tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu Kitô. Chính Người đã nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
213. Như thế tình yêu này trở thành sự phục vụ trong cộng đoàn. Tôi không bao giờ mệt mỏi khi nhắc lại rằng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta điều này bằng những lời rõ ràng nhất có thể: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Giờ đây, Người yêu cầu bạn gặp Người ở đó, nơi mỗi anh chị em của chúng ta, và nhất là nơi những thành viên nghèo khổ, bị khinh miệt và bị bỏ rơi của xã hội. Cuộc gặp gỡ ấy đẹp đẽ biết bao!
214. Khi chúng ta quan tâm giúp đỡ người khác, đó không hề có nghĩa rằng chúng ta đang quay lưng lại với Chúa Giêsu. Đúng hơn, chúng ta đang gặp Người bằng một cách khác. Bất cứ khi nào chúng ta cố gắng giúp đỡ và chăm sóc một người khác, thì Chúa Giêsu ở bên chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng khi Người sai các môn đệ đi làm sứ mạng, “Chúa cùng hoạt động với các ông” (Mc 16,20). Người luôn ở đó, luôn làm việc, chia sẻ những cố gắng làm việc thiện của chúng ta. Một cách huyền nhiệm, tình yêu của Người trở nên hiện diện thông qua sự phục vụ của chúng ta. Người nói với thế giới bằng một ngôn ngữ đôi khi không cần lời.
215. Chúa Giêsu đang gọi bạn và sai bạn đi làm lan tỏa sự tốt lành trong thế giới chúng ta. Tiếng gọi của Người là tiếng gọi phục vụ, một lời kêu gọi làm điều tốt, có thể trong tư cách một y sĩ, một người mẹ, một giáo viên hay một linh mục. Dù bạn ở đâu, bạn có thể nghe thấy tiếng gọi của Người và nhận ra rằng Người đang sai bạn đi để thi hành sứ mạng đó. Chính Người đã nói với chúng ta: “Thầy sai anh em ra đi” (Lc 10,3). Đó là một phần trong việc chúng ta kết bạn với Người. Tuy nhiên, để tình bạn này trưởng thành, bạn phải cho phép Người sai bạn đi làm sứ mạng trong thế giới này, và thi hành sứ mạng đó một cách tin tưởng, quảng đại, tự do và không sợ hãi. Nếu bạn vẫn bị mắc kẹt trong khu vực dễ chịu của riêng mình, bạn sẽ không bao giờ thực sự tìm thấy sự yên ổn; những nghi ngờ và sợ hãi, buồn phiền và lo lắng sẽ luôn rình rập ở chân trời. Những ai không thi hành sứ mạng của mình trên trái đất này sẽ không tìm thấy hạnh phúc mà là sự thất vọng. Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn ở bên bạn trong mỗi bước đi trên đường. Người sẽ không ném bạn xuống vực thẳm, hay bỏ mặc bạn tự xoay xở. Người sẽ luôn ở đó để khích lệ và đồng hành với bạn. Người đã hứa và Người sẽ thực hiện: “Ta ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
216. Theo cách riêng của mình, bạn cũng phải là một nhà thừa sai, giống như các tông đồ và các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, những người đã ra đi loan báo tình yêu của Thiên Chúa, nói với người khác rằng Chúa Kitô đang sống và đáng được nhận biết. Thánh Têrêsa đã kinh nghiệm điều này như một phần thiết yếu trong sự dâng hiến của mình cho Tình yêu thương xót: “Con muốn cho Người Yêu Dấu của con uống và con cảm thấy mình bị thiêu đốt bởi cơn khát các linh hồn”.[227] Đó cũng là sứ mạng của bạn. Mỗi người chúng ta phải thực hiện sứ mạng đó theo cách riêng của mình; bạn sẽ thấy mình có thể trở thành một nhà thừa sai như thế nào. Chúa Giêsu xứng đáng như vậy. Nếu bạn chấp nhận sự thách đố, Người sẽ soi sáng cho bạn, đồng hành với bạn và củng cố bạn, và bạn sẽ có một cảm nghiệm phong phú mang lại cho bạn nhiều niềm vui. Điều quan trọng không phải là bạn có thấy kết quả ngay lập tức hay không; hãy phó thác cho Chúa, Đấng làm việc kín ẩn trong trái tim chúng ta. Hãy tiếp tục kinh nghiệm niềm vui phát sinh từ những nỗ lực của chúng ta để chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô cho người khác.
KẾT LUẬN
217. Văn kiện này có thể giúp chúng ta thấy rằng giáo huấn của các Thông điệp xã hội Laudato Si’và Fratelli Tuttikhông phải là không liên quan đến cuộc gặp gỡ của chúng ta với tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì chính bằng cách uống lấy tình yêu đó, chúng ta mới có khả năng kiến tạo những mối dây huynh đệ, nhìn nhận phẩm giá của mỗi con người, và cùng nhau làm việc để chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.
218. Trong một thế giới mà mọi thứ đều được mua và bán, cảm thức của người ta về giá trị của mình xem ra ngày càng phụ thuộc vào những gì họ có thể tích lũy được bằng sức mạnh của đồng tiền. Chúng ta liên tục bị thúc đẩy để tiếp tục mua sắm, tiêu thụ và phân tán tâm trí mình, bị khống chế trong một hệ thống hạ cấp không cho phép chúng ta nhìn xa hơn những nhu cầu trước mắt và nhỏ nhặt của mình. Tình yêu Chúa Kitô không có chỗ trong cơ chế hư hỏng này, thế mà chỉ có tình yêu đó mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự theo đuổi điên cuồng không còn chỗ cho một tình yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa Kitô có thể trao cho thế giới chúng ta một trái tim, và làm hồi sinh tình yêu ở bất cứ nơi nào chúng ta nghĩ rằng khả năng yêu thương đã hoàn toàn không còn.
219. Giáo hội cũng cần tình yêu đó, để cho tình yêu của Chúa Kitô không bị thay thế bởi những cơ cấu và những mối bận tâm lỗi thời, bởi sự quá bám dính vào những ý tưởng và quan điểm riêng của chúng ta, và bởi sự cuồng tín dưới vô số hình thức, mà cuối cùng sẽ thay thế tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa vốn có sức giải thoát, làm sống động, mang lại niềm vui cho tâm hồn và xây dựng cộng đoàn. Cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô tiếp tục tuôn trào dòng nước không bao giờ cạn kiệt, không bao giờ biến mất, nhưng luôn luôn cống hiến cho tất cả những ai ước ao yêu như Người đã yêu. Vì chỉ có tình yêu của Người mới có thể mang lại một nhân loại mới.
220. Tôi cầu xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho Thánh Tâm Người tiếp tục tuôn trào những dòng nước sự sống có thể chữa lành những tổn thương mà chúng ta đã gây ra, củng cố nơi chúng ta khả năng yêu thương và phục vụ người khác, và thôi thúc chúng ta cùng đi với nhau hướng tới một thế giới công bằng, liên đới và huynh đệ. Cho đến ngày chúng ta sẽ vui mừng cùng nhau cử hành bữa tiệc thiên quốc trong sự hiện diện của Chúa phục sinh, Đấng hòa hợp mọi khác biệt của chúng ta trong ánh sáng luôn chiếu tỏa từ trái tim rộng mở của Người. Nguyện Người được chúc tụng muôn đời.
Ban hành tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng 10 năm 2024, năm thứ mười hai Triều đại Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS
Chuyển ngữ từ: vatican.va
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/
[162] THÁNH MARGARET MARIE ALACOQUE, Tự truyện, n. 55.
[163] Thư 133 gửi Cha Croiset.
[164] Tự truyện, n. 92.
[165] Thông điệp Annum Sacrum (25/5/1899): ASS 31 (1898-1899), 649.
[166] IULIANUS IMP., Ep. XLIX ad Arsacium Pontificem Galatiae, Mainz, 1828, 90-91.
[167] Ibid.
[168] BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 2 tháng 4 năm 2024), 19: L’Osservatore Romano, ngày 8 tháng 4 năm 2024.
[169] X. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư gửi Bề trên Tổng quyền Dòng Tên về Kỷ niệm 50 năm ban hành Thông điệp “Haurietis Aquas” (15 tháng 5 năm 2006): AAS 98 (2006), 461.
[170] In Num. homil. số 12, 1: PG 12, 657.
[171] Epist. 29, 24: PL 16, 1060.
[172] Adv. Arium 1, 8: PL 8, 1044.
[173] Tract. in Joannem 32, 4: PL 35, 1643.
[174] Expos. ở Ev. S. Joannis, cap. VII, lectio 5.
[175] PIÔ XII, Thông điệp Haurietis Aquas, 15 tháng 5, 1956: AAS 48 (1956), 321.
[176] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3, 1987), 38: AAS 79 (1987), 411.
[177] CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62.
[178] Ibid., 60.
[179] Sermones super Cant., XX, 4: PL 183, 869.
[180] Dẫn vào đời sống đạo đức, Phần III, xxxv.
[181] Bài giảng Chúa Nhật XVII sau lễ Hiện Xuống.
[182] Écrits spirituels, Paris 1947, 67.
[183] Sau ngày 19 tháng 3 năm 1902, tất cả các lá thư của Charles đều bắt đầu bằng những từ Jesus Caritas được phân cách bởi một trái tim có cây thánh giá trên đỉnh.
[184] Thư gửi l’Abbé Huvelin, ngày 15 tháng 7 năm 1904.
[185] Thư gửi Dom Martin, ngày 25 tháng 1 năm 1903.
[186] Trích dẫn trong RENÉ VOILLAUME , Les fraternités du Père de Foucauld, Paris, 1946, 173.
[187] Méditations des saints Évangiles sur les snippets relatifs à quinze vertus, Nazareth, 1897-1898, Charité ( Mt 13,3), 60.
[188] Ibid., Charité ( Mt 22,1), 90.
[189] H. HUVELIN , Quelques directeurs d’âmes au XVII siècle, Paris, 1911, 97.
[190] Huấn đức, “Phục vụ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Bản thân”, ngày 11 tháng 11 năm 1657.
[191] Quy tắc chung của Hội dòng về Sứ mạng, ngày 17 tháng 5 năm 1658, c. 2, 6.
[192] Thư gửi Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, Paray-le-Monial, 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, 6 tháng 10 năm 1986, tr. 7.
[193] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Reconciliatio et Paenitentia (2/12/1984), 16: AAS 77 (1985), 215.
[194] x. Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), 36: AAS 80 (1988), 561-562.
[195] Thông điệp Centesimus Annus (ngày 1 tháng 5 năm 1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.
[196] Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1888.
[197] Giáo lý, ngày 8 tháng 6 năm 1994, 2: L’Osservatore Romano, ngày 4 tháng 5 năm 1994, trang 5.
[198] Nói chuyện với các tham dự viên Hội thảo quốc tế “Réparer L’Irréparable”, nhân kỷ niệm 350 năm ngày Chúa Giêsu hiện ra tại Paray-le-Monial, ngày 4 tháng 5 năm 2024: L ‘Osservatore Romano, ngày 4 tháng 5 năm 2024, trang 12.
[199] Ibid.
[200] Bài giảng trong Thánh lễ buổi sáng tại Domus Sanctae Marthae, ngày 6 tháng 3 năm 2018: L’Osservatore Romano, ngày 5-6 tháng 3 năm 2018, tr. 8.
[201] Nói chuyện với các tham dự viên Hội thảo quốc tế “Réparer L’Irréparable”, nhân kỷ niệm 350 năm ngày Chúa Giêsu hiện ra tại Paray-le-Monial, ngày 4 tháng 5 năm 2024: L ‘Osservatore Romano, ngày 4 tháng 5 năm 2024, trang 12.
[202] Bài giảng Thánh lễ Truyền Dầu, 28 tháng 3, 2024: L’Osservatore Romano, 28 March 2024, p. 2.
[203] Ibid.
[204] Ibid.
[205] Thông điệp Laudato Si’ (24.5.2015), 80: AAS 107 (2015), 879.
[206] Giáo lý của Giáo hội Công giáo, No. 1085.
[207] Ibid., No. 268.
[208] Tự truyện, n. 53.
[209] Ms A, 84r.
[210] Ibid.
[211] Ibid.
[212] Ms A, 83v.; x. Thư 226 gửi Cha Roulland, 9.5.1897.
[213] Kinh Dâng Hiến cho Tình yêu Thương xót, 9.6.1895, 2r-2v.
[214] Ms B, 3v.
[215] Thư 186 gửi Léonie, 11.4.1896.
[216] Thư 258 gửi l’Abbé Bellière, 18.7.1897.
[217] x. PIÔ XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor, 8.5.1928: AAS 20 (1928), 169.
[218] Ibid.: AAS 20 (1928), 172.
[219] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II ,Giáo lý, 20.6.1979. L’Osservatore Romano, 22.6.1979, tr. 1.
[220] Bài giảng Thánh lễ sáng tại Nhà nguyện Sanctae Marthae, 27.6.2014: L’Osservatore Romano, 28.6.2014, tr. 8.
[221] Sứ điệp nhân Kỷ niệm 100 năm Dâng hiến Nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, Warsaw, 11.6.1999, Lễ Trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. L’Osservatore Romano, 12.6.1999, tr. 5.
[222] Ibid.
[223] Thư gửi Tổng Giám mục Lyon nhân dịp hành hương đến Paray-le-Monial nhân kỷ niệm 100 năm Ngày thánh hiến nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày 4 tháng 6 năm 1999: L’Osservatore Romano, ngày 12 tháng 6 năm 1999, trang 4.
[224] Huấn đức, “Lặp lại lời cầu nguyện”, ngày 22 tháng 8 năm 1655.
[225] Thư Diserti interpretes (ngày 25 tháng 5 năm 1965), trang 4: Enchiridion della Vita Consacrata, Bologna-Milano, 2001, số 3809.
[226] Vita Nuova XIX, 5-6: “Nghĩ về giá trị của tình yêu, tôi cho rằng nó làm mình cảm thấy ngọt ngào đến nỗi nếu mà không mất can đảm, tôi sẽ lên lời thuyết phục người ta yêu”.
[227] Ms A, 45v.