Tin tứcTrang chủ

THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA – Phần I

THÔNG ĐIỆP

DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

VỀ TÌNH YÊU NHÂN LOẠI VÀ THẦN LINH CỦA TRÁI TIM CHÚA GIÊSU KITÔ

1. “NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA”, Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô (x. Rm 8,37), để giúp ta nhận ra rằng không gì có thể “tách chúng ta” ra khỏi tình yêu ấy (Rm 8,39). Thánh Phaolô có thể khẳng quyết chắc chắn điều này vì chính Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,9.12). Ngay cả bây giờ, Chúa vẫn nói với chúng ta: “Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15). Trái tim rộng mở của Người đã đi trước và chờ đợi chúng ta, một cách vô điều kiện, chỉ muốn trao cho ta tình yêu và tình bạn của Người. Vì “Người đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1Ga 4,10). Nhờ Chúa Giêsu, “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1Ga 4,16).

CHƯƠNG MỘT – TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRÁI TIM

2. Biểu tượng trái tim thường được dùng để diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Một số người chất vấn liệu biểu tượng này có vẫn còn ý nghĩa hôm nay hay không. Tuy nhiên, sống trong một thời đại hời hợt, hối hả từ việc này sang việc khác mà không thực sự biết tại sao, rồi rốt cuộc trở thành những người tiêu thụ không biết chán và những nô lệ cho các cơ chế của một thị trường không quan tâm gì đến ý nghĩa sâu xa hơn của đời sống mình, thì tất cả chúng ta cần khám phá lại tầm quan trọng của trái tim.[1]

CHÚNG TA MUỐN NÓI GÌ KHI NÓI “TRÁI TIM”?

3. Trong tiếng Hy lạp cổ, từ kardíachỉ về phần sâu thẳm nhất của con người, động vật và thực vật. Đối với Homer, nó không chỉ nói về trung tâm của cơ thể, mà còn nói về tâm hồn và tinh thần người ta. Trong Iliad, tư tưởng và cảm xúc xuất phát từ trái tim và gắn kết chặt chẽ với nhau.[2] Trái tim được coi là nơi của ước muốn và là chỗ mà các quyết định quan trọng hình thành.[3] Trong Plato, trái tim luôn đảm trách việc thống nhất các khía cạnh lý trí và bản năng của con người, vì các xung lực của các năng lực thượng đẳng lẫn các đam mê được cho là đi qua các mạch máu hội tụ nơi trái tim.[4] Vì thế từ thời xa xưa, người ta đã chân nhận sự kiện rằng con người không chỉ là tổng hợp các năng khiếu khác nhau, mà còn là sự hợp nhất của cơ thể và tâm hồn, với một trung tâm điều phối cung cấp phông nền ý nghĩa và chiều hướng cho tất cả những gì mà con người kinh nghiệm.

4. Kinh Thánh nói với ta rằng “Lời Chúa sống động và hữu hiệu… có khả năng xét đoán các tư tưởng và ý định của trái tim” (Dt 4,12). Như vậy, Kinh Thánh nói về trái tim như một cốt lõi nằm ẩn dưới mọi vẻ bề ngoài, ngay cả dưới những suy nghĩ hời hợt có thể làm lung lạc chúng ta. Các môn đệ Emmau, trên hành trình huyền nhiệm của họ, được đồng hành bởi Chúa Kitô phục sinh, đã kinh nghiệm một thời khắc ưu phiền, hoang mang, chán nản và thất vọng. Tuy nhiên, vượt quá và bất chấp tình trạng này, một điều gì đó đã xảy ra sâu thẳm trong lòng họ: “Trái tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Người nói chuyện với chúng ta trên đường sao?” (Lc 24,32).

5. Trái tim cũng định vị sự chân thành, trong đó không có chỗ cho sự lừa dối và ngụy trang. Nó thường cho thấy những ý hướng thực sự của chúng ta, những gì ta thực sự nghĩ, tin và mong muốn, những “bí mật” mà ta không tiết lộ với ai – nói tóm lại, nó cho thấy sự thật trần trụi về chính chúng ta. Đó là phần nơi chúng ta vốn không phải là ngoại hình hay ảo ảnh, mà là phần chân thực, hiện thực, hoàn toàn là “con người thật của ta”. Vì thế nên Samson, người đã giấu Delilah bí mật về sức mạnh của mình, đã bị cô ấy hỏi “Làm sao chàng có thể nói ‘anh yêu em’, khi mà trái tim chàng không ở gần em?” (Tl 16,15). Chỉ khi Samson mở lòng mình với cô, Delilah mới nhận ra “rằng chàng đã kể cho mình nghe tất cả bí mật của chàng” (Tl 16,18).

6. Thực tại bên trong này của mỗi người thường bị che lấp bởi rất nhiều “tán lá”, làm ta không chỉ khó hiểu chính mình, mà còn khó hiểu hơn về người khác: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17,9). Vì thế, ta có thể hiểu lời khuyên của sách Châm ngôn: “Hãy gìn giữ trái tim con cho thật kỹ, vì từ nơi đó mà sự sống phát sinh; lời nói lọc lừa con hãy đẩy cho xa” (4,23-24). Sự chăm chút chỉ những thứ bề ngoài, sự không trung thực và lừa dối sẽ làm tổn hại và hư hỏng trái tim con người. Bất chấp mọi cố gắng của ta để giả hình, trái tim chúng ta sẽ là thẩm phán cuối cùng, không phải về những gì ta thể hiện hay che giấu đối với người khác, mà là về con người thật của mình. Đó là cơ sở cho bất cứ kế hoạch nào nhằm sống lành mạnh; người ta không thể nhận được gì đáng giá ở ngoài trái tim. Những vẻ giả tạo bề ngoài và những điều không trung thực cuối cùng sẽ để lại cho ta bàn tay trắng.

7. Để minh họa điều này, tôi muốn nhắc lại một câu chuyện mà mình từng kể. “Dịp lễ hội hóa trang hồi chúng tôi còn nhỏ, bà tôi làm món bánh bột nhào bằng những lát bột rất mỏng. Khi bà thả các lát bột vào chảo dầu, chúng sẽ nở to ra, nhưng sau đó, khi chúng tôi cắn vào, hóa ra bên trong chúng trống rỗng. Trong thổ ngữ của chúng tôi, những chiếc bánh này được gọi là ‘bánh phồng’… Bà tôi giải thích: ‘Giống như những lời dối trá phóng đại, chúng trông to, nhưng bên trong trống rỗng; chúng giả tạo, không thật’”.[5]

8. Thay vì theo đuổi những thỏa mãn hời hợt và thay vì làm bộ giúp ích người khác, tốt hơn chúng ta nên suy nghĩ về những câu hỏi thực sự quan trọng trong đời. Tôi thực sự là ai? Tôi đang tìm kiếm gì? Tôi muốn định hướng thế nào cho đời mình, cho những quyết định và những hành động của mình? Tại sao tôi có mặt trên đời này, và nhằm mục đích gì? Tôi muốn nhìn thấy cuộc sống mình thế nào khi đời mình kết thúc? Đâu là ý nghĩa mà tôi muốn trao cho tất cả những kinh nghiệm của mình? Tôi muốn trở thành ai đối với người khác? Tôi là ai đối với Thiên Chúa? Tất cả những câu hỏi này đưa dẫn chúng ta trở lại với trái tim mình.

TRỞ VỀ VỚI TRÁI TIM

9. Trong cái thế giới “lỏng lẻo” này của mình, chúng ta một lần nữa cần bắt đầu nói về trái tim, và cần suy nghĩ về chính nơi mà mọi người, thuộc mọi tầng lớp và hoàn cảnh, tạo ra một tổng hợp trong đó họ gặp thấy căn nguyên của những sức mạnh, những niềm xác tín, những sự say mê và những quyết định của mình. Tuy nhiên, chúng ta thấy mình bị nhận chìm trong xã hội của những người hăm hở tiêu thụ, ngày này qua ngày khác bị chi phối bởi nhịp sống hối hả và bị dội bom công nghệ, thiếu sự kiên nhẫn cần thiết để dấn mình vào những tiến trình mà bản chất của đời sống nội tâm đòi hỏi. Trong xã hội ngày nay, con người “có nguy cơ đánh mất trung tâm của mình, trung tâm của chính bản ngã mình”.[6] “Thật vậy, những con người nam nữ của thời đại chúng ta thường thấy mình bị bấn loạn và xâu xé, hầu như bị tước mất một nguyên lý bên trong vốn có thể tạo lập sự thống nhất và hòa hợp trong cuộc sống và hành động của họ. Đáng buồn là các mô hình ứng xử lan rộng hiện nay đang quá đẩy mạnh chiều kích lý tính-công nghệ của chúng ta, hay ngược lại, quá đẩy mạnh chiều kích bản năng của chúng ta”.[7] Không còn chỗ nào dành cho trái tim.

10. Những vấn đề đặt ra bởi xã hội lỏng lẻo ngày nay đang được thảo luận nhiều, nhưng sự coi thường cái cốt lõi thâm sâu của nhân tính chúng ta – là trái tim – thì có một lịch sử lâu đời hơn nhiều. Chúng ta vốn thấy nó có mặt trong chủ nghĩa duy lý Hy lạp và tiền Kitô giáo, trong chủ nghĩa duy tâm hậu Kitô giáo và trong chủ nghĩa duy vật dưới nhiều dáng dấp khác nhau. Trái tim đã bị bỏ qua trong nhân học, và truyền thống triết học đồ sộ coi nó là một khái niệm xa lạ, trong khi ưa chuộng các ý niệm khác như lý trí, ý chí hay tự do. Bản thân ý nghĩa của hạn từ này thì mơ hồ và khó định vị trong kinh nghiệm con người của chúng ta. Có lẽ điều này là do sự khó khăn trong việc xem nó như một “ý tưởng rõ ràng và phân biệt”, hoặc vì nó gắn với vấn đề tự nhận thức, trong đó phần sâu xa nhất của chúng ta cũng là phần ít được hiểu biết nhất. Ngay cả việc gặp gỡ người khác cũng không nhất thiết được coi là một cách để gặp gỡ chính mình, trong mức độ các khuôn mẫu suy nghĩ của chúng ta bị chi phối bởi một chủ nghĩa cá nhân không lành mạnh. Nhiều người cảm thấy an toàn hơn khi xây dựng hệ thống tư tưởng của mình trong phạm vi dễ kiểm soát hơn của trí năng và ý chí. Việc không dành chỗ cho trái tim, phân biệt với các sức mạnh và các đam mê của con người chúng ta khi được nhìn tách rời nhau, đã gây cản trở việc ý niệm về một trung tâm của cá nhân, trong đó rốt cuộc tình yêu là thực tại duy nhất có thể thống nhất tất cả những thực tại khác.

11. Nếu coi thường trái tim, chúng ta cũng coi thường ý nghĩa của việc nói từ trái tim, hành động bằng trái tim, vun đắp và chữa lành trái tim. Nếu chúng ta không trân trọng tính chuyên biệt của trái tim, chúng ta sẽ bỏ hụt những thông điệp mà duy chỉ trí óc thì không thể truyền đạt; chúng ta sẽ bỏ lỡ sự phong phú của những cuộc gặp gỡ với người khác; chúng ta sẽ bỏ lỡ thi ca. Chúng ta cũng đánh mất dấu vết của lịch sử và quá khứ của chính mình, vì lịch sử con người thực của chúng ta được xây dựng bằng trái tim. Vào lúc cuối đời, chỉ điều đó mới quan trọng.

12. Vì thế phải nói rằng chúng ta có một trái tim, một trái tim cùng tồn tại với những trái tim khác giúp làm cho nó thành một “Bạn”. Vì không thể khai triển dông dài chủ đề này, chúng ta sẽ lấy nhân vật Nikolai Stavrogin từ một tiểu thuyết của Dostoevsky.[8] Romano Guardini lập luận rằng Stavrogin chính là hiện thân của sự dữ, bởi vì đặc điểm chính của ông ta là sự vô tâm: “Stavrogin không có trái tim, do đó đầu óc ông ta lạnh lùng và trống rỗng, cơ thể ông ta chìm ngập trong sự ươn lười và nhục cảm thú tính. Không có trái tim, ông ta không thể thân thiết với ai, và không ai có thể thực sự thân thiết với ông. Vì chỉ trái tim mới tạo nên sự mật thiết, sự gần gũi thực sự giữa hai người. Chỉ trái tim mới có thể trao và nhận lòng hiếu khách. Sự mật thiết là hoạt động riêng và là lãnh vực của trái tim. Stavrogin luôn vô cùng xa cách, ngay cả xa cách chính mình, bởi vì người ta chỉ có thể đi vào bên trong chính mình bằng trái tim, không phải bằng trí óc. Với khả năng của mình, người ta không thể đi vào nội tâm mình bằng trí óc. Vì thế, nếu trái tim không sống động, người ta vẫn xa lạ với chính mình”.[9]

13. Mọi hành động của chúng ta phải được đặt dưới “quy tắc chính trị” của trái tim. Theo cách này, sự hung hăng và những dục vọng ám ảnh của chúng ta sẽ lắng dịu trong điều tốt đẹp hơn mà trái tim mời gọi, và trong sức mạnh của trái tim đề kháng sự dữ. Trí năng và ý chí được đặt phục vụ cho điều tốt đẹp hơn bằng cách cảm nhận và thưởng thức những sự thật, thay vì tìm cách làm chủ chúng như khoa học có xu hướng làm. Ý chí sẽ khao khát điều tốt đẹp hơn mà trái tim nhận ra, trong khi chính trí tưởng tượng và các cảm xúc được dẫn dắt bởi nhịp đập của trái tim.

14. Do đó, có thể nói rằng tôi là trái tim của tôi, vì trái tim của tôi là cái làm cho tôi khác biệt, định hình căn tính tâm linh của tôi và đưa tôi vào hiệp thông với những người khác. Các thuật toán vận hành trong thế giới kỹ thuật số cho thấy rằng các tư tưởng và ý chí của chúng ta “đồng nhất” hơn nhiều so với chúng ta từng nghĩ trước đây. Chúng dễ dàng được dự đoán và do đó có thể bị thao túng. Nhưng trái tim thì không như vậy.

15. Từ “trái tim” chứng tỏ giá trị của nó đối với triết học và thần học trong các cố gắng nhằm đạt được một tổng hợp toàn diện. Ý nghĩa của nó cũng không thể được thấu triệt bởi sinh học, tâm lý học, nhân chủng học hay bất cứ khoa học nào khác. Đó là một trong những từ nguyên thủy “mô tả những thực tại thuộc về con người đúng theo mức độ con người là một tổng thể (như một con người tâm-thân)”.[10] Theo đó thì các nhà sinh học không hề “thực tiễn” hơn khi họ thảo luận về trái tim, vì họ chỉ nhìn thấy một khía cạnh của nó; cái tổng thể không hề ít thực hơn, mà thậm chí còn thực hơn. Ngôn ngữ trừu tượng cũng không thể đạt được cùng một ý nghĩa cụ thể và tích hợp ấy. Từ “trái tim” gợi lên cốt lõi sâu thẳm nhất của con người chúng ta, và do đó nó cho phép chúng ta nhận hiểu chính mình trong tính toàn nhập của mình chứ không chỉ dưới một khía cạnh tách biệt.

16. Năng lực độc đáo này của trái tim cũng giúp chúng ta hiểu tại sao – khi chúng ta nắm bắt một thực tại bằng trái tim – thì ta sẽ hiểu biết nó tốt hơn và đầy đủ hơn. Điều này tất yếu dẫn chúng ta đến tình yêu là điều vốn thuộc năng lực của trái tim, vì “cốt lõi thâm sâu nhất của thực tại là tình yêu”.[11] Đối với Heidegger, như được một nhà tư tưởng đương thời diễn giải, triết học không bắt đầu bằng một ý niệm đơn giản hay sự chắc chắn, mà bằng một cú sốc: “Tư tưởng phải được khơi dậy trước khi nó bắt đầu làm việc với các ý niệm, hoặc trong khi nó làm việc với chúng. Nếu không có cảm xúc sâu sắc, tư duy không thể bắt đầu. Do đó, hình ảnh tâm thần đầu tiên sẽ là nổi da gà. Điều đầu tiên kích động người ta suy nghĩ và chất vấn chính là cảm xúc sâu sắc. Triết học luôn diễn ra trong một trạng thái hưng phấn cơ bản (Stimmung)”.[12] Đó là lúc trái tim nhập cuộc, vì nó “chứa đựng các trạng thái tâm cảm và nó làm việc trong tư cách một ‘người giữ các trạng thái tâm cảm’. ‘Trái tim’ lắng nghe theo một cách phi ẩn dụ ‘tiếng nói lặng thầm’ của hữu thể, cho phép chính nó được tôi luyện và được xác định bởi tiếng nói ấy”.[13]

TRÁI TIM KẾT HỢP CÁC PHÂN MẢNH

17. Đồng thời, trái tim làm cho mọi mối gắn kết chân thực trở thành có thể, vì một mối tương quan không được hình thành bởi trái tim thì sẽ không thể vượt qua tình trạng phân mảnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Hai đơn tử có thể tiếp cận nhau, nhưng chúng sẽ không bao giờ thực sự kết nối. Một xã hội bị thống trị bởi bệnh ái kỷ và qui ngã sẽ ngày càng trở nên “vô tâm”. Điều này đến lượt nó sẽ dẫn tới tình trạng “mất khát vọng”, vì khi những người khác biến mất khỏi chân trời, chúng ta thấy mình bị mắc kẹt trong những bức tường do chính mình tạo ra, không còn khả năng có những mối tương quan lành mạnh.[14] Kết quả là chúng ta cũng trở nên mất khả năng cởi mở với Thiên Chúa. Như Heidegger diễn tả, để cởi mở với thực tại thần linh, chúng ta cần xây dựng một “nhà khách”.[15]

18. Do đó, chúng ta thấy rằng trong trái tim của mỗi người có một mối nối kết thần nhiệm giữa sự tự thức và sự cởi mở với người khác, giữa việc gặp gỡ tính độc đáo của riêng mình và sự sẵn lòng hiến thân cho người khác. Chúng ta chỉ trở thành chính mình trong mức độ ta đạt được khả năng nhìn nhận người khác, trong khi chỉ những ai có thể nhìn nhận và chấp nhận bản thân mình thì mới có thể gặp gỡ người khác.

19. Trái tim cũng có khả năng thống nhất và hòa hợp lịch sử cá nhân của chúng ta, lịch sử này dường như bị phân mảnh một cách vô vọng, nhưng lại là nơi mà mọi thứ khả dĩ có ý nghĩa. Phúc Âm kể cho ta điều này khi nói về Đức Mẹ, người đã nhìn mọi sự bằng trái tim. Mẹ có thể đối thoại với những điều Mẹ đã trải nghiệm bằng cách suy ngẫm chúng trong lòng, trân quí ký ức về chúng và nhìn chúng trong một viễn cảnh rộng lớn hơn. Diễn tả hay nhất về cách trái tim suy nghĩ được tìm thấy trong hai bản văn của Tin Mừng Luca nói với chúng ta về cách Đức Maria “ghi nhớ (synetérei) tất cả những điều ấy và suy ngẫm (symbállousa) trong lòng” (x. Lc 2,19 và 51). Động từ Hy lạp symbállein, “suy ngẫm”, gợi hình ảnh của việc ghép hai thứ lại với nhau (“các biểu tượng”) trong tâm trí của mình và suy tư về chúng, trong một cuộc đối thoại với chính mình. Trong Luca 2,51, động từ được dùng là dietérei, có nghĩa là “giữ gìn”. Điều Đức Maria đã “giữ gìn” không chỉ là ký ức của Mẹ về những gì Mẹ đã thấy và nghe, mà còn là những khía cạnh mà Mẹ vẫn chưa hiểu; tuy nhiên, những khía cạnh này vẫn hiện diện và sống động trong ký ức của Mẹ, chờ đợi để được “ghép lại” trong trái tim của Mẹ.

20. Trong thời đại trí tuệ nhân tạo này, chúng ta không thể quên rằng thi ca và tình yêu thật cần thiết để cứu nhân loại chúng ta. Sẽ không có thuật toán nào nắm bắt được, chẳng hạn, nỗi hoài vọng mà tất cả chúng ta đều cảm thấy, bất kể tuổi tác và bất kể ta đang sống ở đâu, khi chúng ta nhớ lại lần đầu tiên mình dùng một cái nĩa để dán mép vỏ những chiếc bánh nhân mà ta giúp mẹ hay bà của mình làm ở nhà. Đó là khoảnh khắc học nghề nấu nướng, vào khoảng giữa tuổi chơi đùa của trẻ con và tuổi trưởng thành, khi chúng ta lần đầu tiên cảm thấy có trách nhiệm làm việc và giúp đỡ nhau. Bên cạnh chiếc nĩa, tôi cũng có thể kể đến hàng ngàn điều nhỏ nhặt khác vốn thuộc về phần quí giá trong cuộc sống của mỗi người: một nụ cười ta nhận được khi kể một câu chuyện vui, một bức vẽ ta phác họa dưới ánh sáng bên khung cửa sổ, trận bóng đá đầu tiên chúng ta chơi với quả bóng làm bằng nùi giẻ, những con sâu chúng ta thu thập được trong hộp giày, một bông hoa ta ép vào trang sách, nỗi lo lắng của ta về một chú chim non rơi khỏi tổ, điều ước của mình khi hái một bông hoa cúc. Tất cả những điều nhỏ nhặt này, vốn dĩ bình thường, nhưng lại phi thường đối với chúng ta, không bao giờ các thuật toán có thể nắm bắt được. Chiếc nĩa ấy, câu chuyện vui ấy, khung cửa sổ ấy, quả bóng, hộp giày, quyển sách, chú chim, và bông hoa ấy: tất cả còn sống động như những kỷ niệm quí báu được “giữ gìn” trong sâu thẳm trái tim chúng ta.

21. Cốt lõi thâm sâu này, hiện diện trong mỗi người nam nữ, không phải là cốt lõi của linh hồn, mà là của toàn bộ con người trong căn tính tâm-thể-lý độc đáo của mình. Mọi thứ đều tìm thấy sự thống nhất của nó nơi trái tim, có thể là cư sở của tình yêu trong tất cả các chiều kích tâm linh, tinh thần và ngay cả thể chất của nó. Nói tóm lại, nếu tình yêu ngự trị trong trái tim mình, chúng ta sẽ trở thành – một cách trọn vẹn và sáng ngời – con người mà ta được nhắm trở thành, vì mỗi con người được tạo dựng trước hết là để yêu thương. Trong sâu thẳm hiện hữu của mình, chúng ta được tạo nên để yêu và được yêu.

22. Vì thế, khi chúng ta chứng kiến sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh mới, với sự đồng lõa, dung túng hoặc thờ ơ của các quốc gia khác, hoặc các cuộc tranh giành quyền lực nhỏ nhen vì lợi ích đảng phái, chúng ta có thể thiên về kết luận rằng thế giới của chúng ta đang đánh mất trái tim. Chúng ta chỉ cần nhìn và lắng nghe những cụ bà – từ cả hai phía – những người đang phải điêu đứng bởi những xung đột tàn khốc này. Thật đau lòng khi thấy họ than khóc cho những đứa cháu nội cháu ngoại của mình bị sát hại, hoặc chính họ chỉ mong được chết sau khi mất đi mái nhà mà họ đã gắn bó cả đời. Những người phụ nữ ấy, vốn thường là những trụ cột của nghị lực và của khả năng phục hồi giữa những truân chuyên khổ ải của cuộc sống, giờ đây, vào cuối đời, họ đang trải qua không phải sự nghỉ ngơi xứng đáng, mà chỉ có đau khổ, sợ hãi và phẫn nộ. Việc đổ lỗi cho người khác không giải quyết được những tình cảnh bi thương đáng xấu hổ này. Nhìn những cụ bà này khóc, mà không cảm thấy rằng đây là một điều không thể chấp nhận được, thì đó là dấu hiệu của một thế giới đã trở thành vô tâm.

23. Bất cứ khi nào một người suy nghĩ, chất vấn và suy tư về căn tính thực sự của mình, cố gắng nhận hiểu những vấn nạn sâu xa hơn của đời sống và tìm kiếm Thiên Chúa, hoặc cảm nhận niềm phấn khích khi thoáng thấy sự thật, thì điều đó sẽ dẫn đến nhận thức rằng sự viên mãn của chúng ta trong tư cách con người được tìm thấy nơi tình yêu. Khi yêu, chúng ta cảm thấy mình nhận hiểu được hướng đích sự hiện hữu của mình trên thế giới này. Mọi thứ kết hợp lại với nhau trong tình trạng nhất quán và hài hòa. Khi đó, trong chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc sống của mình, có lẽ câu hỏi quyết định nhất mà chúng ta đặt ra là: “Phải chăng mình có một trái tim?”

LỬA

24. Tất cả những gì chúng ta đã nói đều có những hàm nghĩa cho đời sống tâm linh. Chẳng hạn, thần học ẩn chứa trong sách Linh Thao của thánh Inhaxiô Loyola dựa trên “tình cảm” (affectus). Cấu trúc của Linh Thao giả định một khao khát mạnh mẽ và chân thành muốn “dàn xếp lại” đời sống mình, một khao khát đến lượt nó sẽ cung cấp sức mạnh và phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Các qui tắc và các việc thiết lập khung cảnh mà Inhaxiô cung cấp là để phục vụ cho một điều gì đó quan trọng hơn nhiều, đó là: mầu nhiệm của trái tim con người. Michel de Certeau cho thấy tại sao “các chuyển động” được Inhaxiô nói đến chính là sự “thâm nhập” của ước muốn Thiên Chúa và ước muốn của chính trái tim chúng ta giữa tiến trình mạch lạc của các bài suy niệm. Một điều gì đó bất ngờ và chưa từng được biết đến bắt đầu nói trong trái tim chúng ta, đột phá sự hiểu biết hời hợt của chúng ta và chất vấn nó. Đây là khởi đầu của một tiến trình mới “sắp xếp lại cuộc sống chúng ta”, bắt đầu từ trái tim. Nó không phải là các ý niệm thuộc trí năng cần được đưa vào thực hành trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, như thể tâm cảm và thực hành chỉ đơn thuần là kết quả của các dữ liệu kiến thức và phụ thuộc vào các dữ liệu ấy.[16]

25. Nơi mà tư duy của triết gia dừng lại, thì ở đó trái tim của người tín hữu tiếp tục bước tới vững vàng trong yêu mến và tôn thờ, trong cầu xin sự tha thứ và trong thái độ sẵn sàng phục vụ ở bất kỳ nơi nào Chúa cho phép chúng ta lựa chọn, để đi theo bước chân của Người. Tại thời điểm đó, chúng ta nhận ra rằng trong mắt Thiên Chúa, chúng ta là một “Bạn”, và vì thế chúng ta có thể là một “Tôi”. Quả thật, chỉ có Chúa mới đề nghị đối xử với mỗi người chúng ta như một “Bạn”, luôn mãi như thế. Việc chấp nhận tình bạn của Người là chuyện của trái tim; đó là điều làm cho chúng ta nên như những nhân vị theo nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ này.

26. Thánh Bonaventura nói với chúng ta rằng cuối cùng ta không nên cầu xin ánh sáng, mà là cầu xin “ngọn lửa mãnh liệt”.[17] Ngài dạy rằng “đức tin ở trong trí năng, theo cách khơi dậy tâm cảm. Theo nghĩa này, chẳng hạn, sự hiểu biết rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta không còn chỉ là sự hiểu biết, mà nhất thiết phải trở thành tình cảm, trở thành tình yêu”.[18] Cùng chiều hướng ấy, thánh John Henry Newman đã lấy cụm từ Cor ad cor loquiturlàm châm ngôn của mình, bởi vì, vượt quá mọi tư tưởng và ý niệm của ta, Chúa cứu chúng ta bằng cách ngỏ lời với trái tim chúng ta từ Thánh Tâm của Người. Nhận thức này đã khiến thánh nhân, con người trí thức lỗi lạc, nhận ra rằng cuộc gặp gỡ sâu xa nhất của ngài với chính mình và với Chúa không đến từ việc đọc sách hay suy tư, mà đến từ cuộc đối thoại cầu nguyện của mình, từ trái tim tới trái tim, với Chúa Kitô, Đấng hiện diện sống động. Chính trong Thánh Thể mà Newman đã gặp được trái tim sống động của Chúa Giêsu, có sức giải thoát chúng ta, trao ý nghĩa cho từng khoảnh khắc đời ta, và ban tặng sự bình an đích thực: “Lạy Trái Tim Cực Thánh và tràn đầy yêu thương của Chúa Giêsu, Trái Tim Chúa giấu ẩn trong Thánh Thể, và vẫn đập vì chúng con… Con tôn thờ Trái Tim Chúa với tất cả lòng mến yêu và kính sợ tốt nhất của con, với tình cảm nồng nhiệt của con, với ý chí kiên quyết và kìm nén nhất của con. Lạy Thiên Chúa của con, khi Chúa hạ mình xuống để con được đón nhận Chúa, được ăn và uống Chúa, và trong một khoảnh khắc Chúa ngự trong con, xin hãy làm cho trái tim con hòa nhịp đập cùng Trái Tim Chúa. Xin thanh tẩy trái tim con khỏi mọi thứ phàm tục, mọi kiêu hãnh và nhục dục, mọi khắc nghiệt và tàn nhẫn, mọi sự đồi bại, mọi hỗn loạn, và mọi chết chóc. Xin lấp đầy trái tim con bằng chính Chúa, để những biến cố hằng ngày hay những hoàn cảnh của thời thế đều không đủ sức làm xáo trộn trái tim con, nhưng trong lòng yêu mến và kính sợ Chúa, trái tim con được bình an”.[19]

27. Đứng trước trái tim Chúa Giêsu sống động và hiện diện, tâm trí chúng ta, được Chúa Thánh Thần soi sáng, lớn lên trong sự hiểu biết lời Chúa, và ý chí của chúng ta được thúc đẩy để đưa lời Chúa vào thực hành. Điều này rất dễ nằm lại ở cấp độ một loại chủ nghĩa đạo đức tự lực. Tuy nhiên, việc lắng nghe và cảm nếm Chúa, và việc tôn vinh Chúa cách xứng hợp, là việc của trái tim. Chỉ trái tim mới có khả năng đặt các sức mạnh và đam mê khác của chúng ta, cùng toàn bộ con người chúng ta, vào tư thế tôn kính và vâng phục đầy mến yêu trước Chúa.

THẾ GIỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI, BẮT ĐẦU TỪ TRÁI TIM

28. Chỉ bằng cách bắt đầu từ trái tim, các cộng đồng của chúng ta mới thành công trong việc hợp nhất và hòa giải những tâm thức và ý chí khác biệt, để Chúa Thánh Thần có thể dẫn dắt chúng ta trong sự hiệp nhất như anh chị em. Sự hòa giải và hòa bình cũng phát sinh từ trái tim. Trái tim của Chúa Kitô là “sự xuất thần”, sự cởi mở, sự ban tặng và gặp gỡ. Trong trái tim đó, chúng ta học biết liên hệ với nhau theo những cách lành mạnh và hạnh phúc, và xây dựng vương quốc tình yêu và công lý của Thiên Chúa trên thế giới này. Trái tim chúng ta, kết hợp với trái tim Chúa Kitô, sẽ có khả năng làm nên kỳ tích xã hội này.

29. Vì thế, việc chú trọng trái tim sẽ có những hiệu ứng cho toàn xã hội. Công Đồng Vatican II dạy rằng “mỗi người chúng ta cần thay đổi trái tim; chúng ta phải chăm chú nhìn toàn thế giới và xem xét những nhiệm vụ mà tất cả chúng ta có thể cùng nhau thực hiện hầu mang lại sự cải thiện cho giống loài”.[20] Vì “những sự mất cân bằng đang ảnh hưởng đến thế giới hôm nay thực ra là triệu chứng của sự mất cân bằng sâu xa hơn bắt nguồn từ trái tim con người”.[21] Khi suy ngẫm về những thảm kịch đang gây đau thương cho thế giới chúng ta, Công Đồng thúc giục chúng ta trở về với trái tim. Công Đồng giải thích rằng con người “với đời sống nội tâm của mình, siêu vượt trên toàn bộ vũ trụ vật chất; con người kinh nghiệm chiều sâu nội tâm này khi họ đi vào trái tim của chính mình, ở đó Thiên Chúa, Đấng thăm dò trái tim, đang chờ đợi họ, và ở đó họ quyết định vận mệnh của chính mình trước mặt Thiên Chúa”.[22]

30. Điều này không hề hàm nghĩa rằng chúng ta sẽ cậy dựa quá mức vào khả năng của chính mình. Đừng bao giờ quên rằng trái tim chúng ta không tự túc, mà yếu đuối và bị tổn thương. Nó có được một phẩm giá về mặt hữu thể, nhưng đồng thời nó phải tìm kiếm một sự sống ngày càng có phẩm giá hơn.[23] Công Đồng Vatican II chỉ ra rằng “men của Phúc Âm đã và đang tiếp tục khơi lên trong trái tim con người một cơn khát nhân phẩm khôn nguôi”.[24] Tuy nhiên, để sống phù hợp với phẩm giá này, chỉ biết Phúc Âm hay thực thi cách máy móc các yêu cầu của Phúc Âm thì chưa đủ. Chúng ta cần sự trợ giúp của tình yêu Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy hướng về trái tim Chúa Kitô, cốt lõi bản thể của Người, là lò lửa rực cháy của tình yêu thần linh và nhân loại, và là sự viên mãn tột đỉnh mà con người có thể khao khát. Ở đó, trong trái tim ấy, cuối cùng chúng ta thực sự nhận biết chính mình và chúng ta học biết yêu thương.

31. Cuối cùng, Thánh Tâm Chúa là nguyên lý thống nhất của mọi thực tại, vì “Chúa Kitô là trái tim của thế giới, và mầu nhiệm vượt qua – với cái chết và sự phục sinh của Người – là trung tâm của lịch sử, chính nhờ Người mà lịch sử là lịch sử cứu độ”.[25] Mọi loài thụ tạo “đang tiến về phía trước cùng với chúng ta và qua chúng ta hướng tới một đích điểm chung là Thiên Chúa, trong sự hoàn thành siêu việt, ở đó Chúa Kitô Phục sinh ôm lấy và chiếu soi mọi sự”.[26] Trong sự hiện diện của trái tim Chúa Kitô, một lần nữa tôi cầu xin Chúa xót thương thế giới đau khổ này, nơi Người đã chọn cư ngụ như một trong chúng ta. Xin Người đổ tràn kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người, để thế giới chúng ta, đang tiến về phía trước bất chấp chiến tranh, bất chấp những chênh lệch về kinh tế xã hội và về việc sử dụng công nghệ vốn đang đe dọa nhân loại này, có thể lấy lại được điều quan trọng và cần thiết nhất: chính là trái tim của nó!

(Trích dẫn từ nguồn https://hdgmvietnam.com/)

Hết Phần I. Còn tiếp…

[1] Nhiều suy tư trong chương đầu tiên này nhận cảm hứng từ các tác phẩm chưa xuất bản của Cố linh mục Diego Fares, S.J. Xin Chúa ban cho ngài sự an nghỉ vĩnh hằng.

[2] x. HOMER, Iliad, XXI, 441.

[3] x. Iliad, X, 244.

[4] x. PLATO, Timaeus, 65 c-d; 70.

[5] Bài giảng trong Thánh lễ buổi sáng tại Domus Sanctae Marthae, ngày 14 tháng 10 năm 2016: L’Osservatore Romano, ngày 15 tháng 10 năm 2016, tr. 8.

[6] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin, ngày 2 tháng 7 năm 2000: L’Osservatore Romano, ngày 3-4 tháng 7 năm 2000, tr. 4.

[7] ID., Giáo lý, ngày 8 tháng 6 năm 1994: L’Osservatore Romano, ngày 9 tháng 6 năm 1994, tr. 5.

[8] Những ác quỷ (1873).

[9] ROMANO GUARDINI, Religiöse Gestalten ở Dostojewskijs Werk, Mainz/Paderborn, 1989, trang 236tt.

[10] KARL RAHNER, “Một số luận đề cho một Thần học về Tôn sùng Thánh Tâm”, trong Nghiên cứu Thần học, tập. III, Baltimore-London, 1967, tr. 332.

[11] Ibid., tr. 333.

[12] BYUNG-CHUL HAN, Heideggers Herz. Zum Begriff der Stimmung bei Martin Heidegger, München, 1996, tr. 39.

[13]  Ibid., tr. 60; x.tr. 176.

[14] x. ID., Agonie des Eros, Berlin, 2012.

[15] x.MARTIN HEIDEGGER, Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung, Frankfürt a. M., 1981, tr. 120.

[16] x. MICHEL DE CERTEAU, L’espace du désir ou le “fondement” des Lessons SpirituelsChristus 77 (1973), tr. 118-128.

[17] Itinerarium Mentis in Deum, VII, 6.

[18] ID., Proemium in I Sent., q. 3.

[19] THÁNH JOHN HENRY NEWMAN, Những bài Suy niệm và những việc Sùng kính, London, 1912, Phần III [XVI], đoạn 3, tr. 573-574.

[20] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 82.

[21] Ibid., 10.

[22] Ibid., 14.

[23] x.BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 2 tháng 4 năm 2024), 8. X. L’Osservatore Romano, ngày 8 tháng 4 năm 2024.

[24] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 26.

[25] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin, ngày 28 tháng 6 năm 1998: L’Osservatore Romano, ngày 30 tháng 6-1 tháng 7 năm 1998, tr. 7.

[26] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 83: AAS 107 (2015), 880.