Tin tứcTrang chủ

THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA – Phần IV

THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS – NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA – Phần IV

CHƯƠNG BỐN – MỘT TÌNH YÊU TỰ BAN TẶNG NHƯ NƯỚC UỐNG

92. Giờ đây chúng ta hãy quay lại với Kinh Thánh, là các bản văn được linh hứng mà ở đó, trên tất cả, chúng ta gặp gỡ mặc khải của Thiên Chúa. Ở đó, và trong Truyền Thống sống động của Giáo hội, chúng ta nghe những gì Chúa muốn nói với ta trong dòng lịch sử. Bằng cách đọc một số bản văn Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về lời của Thiên Chúa vốn đã hướng dẫn cuộc hành hương thiêng liêng vĩ đại của dân Người qua các thời đại.

MỘT THIÊN CHÚA KHAO KHÁT TÌNH YÊU

93. Kinh Thánh cho thấy rằng dân tộc đi qua sa mạc và khao khát tự do đã nhận được lời hứa về một nguồn nước trao ban sự sống dồi dào: “Các ngươi sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ” (Is 12,3). Các lời tiên tri về Đấng cứu thế dần dần hội tụ xung quanh hình ảnh nước thanh tẩy: “Ta sẽ rảy nước trong ngần trên các ngươi, và các ngươi sẽ được sạch… Ta sẽ đặt một thần khí mới vào trong các ngươi” (Ed 36,25-26). Nước này sẽ ban cho dân Chúa sự sống viên mãn, giống như một suối nước chảy ra từ Đền Thờ mang theo sự sống dồi dào và sự cứu rỗi. “Tôi thấy trên bờ sông, bên này và bên kia có rất nhiều cây cối… sông chảy đến đâu, mọi sinh vật sẽ được sống… và khi dòng sông ấy chảy vào biển, nước của nó sẽ trở nên trong lành; mọi vật sẽ sống nơi dòng sông ấy chảy đến” (Ed 47,7-9).

94. Lễ Lều Tạm (Sukkot) của người Do thái, nhằm nhắc nhớ bốn mươi năm của dân Israel trong sa mạc, dần dần đã lấy biểu tượng nước làm yếu tố trung tâm. Lễ này bao gồm nghi lễ dâng nước vào mỗi buổi sáng, trở nên long trọng nhất vào ngày cuối cùng của lễ hội, khi một đoàn rước lớn tiến về Đền Thờ, sẽ đi quanh bàn thờ bảy lần, và nước được tiến dâng lên Chúa giữa tiếng reo hò vui mừng.[83]

95. Buổi bình minh của thời thiên sai được mô tả như một nguồn suối tuôn trào cho dân chúng: “Ta sẽ đổ một thần khí thương xót và khẩn cầu trên nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, và chúng sẽ nhìn lên Đấng mà chúng đã đâm thâu… Vào ngày đó, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, để tẩy sạch tội lỗi và ô uế” (Dcr 12,10; 13,1).

96. Đấng bị đâm thâu, một nguồn suối tuôn chảy, sự đổ tràn của một thần khí thương xót và khẩn cầu: các Kitô hữu đầu tiên không thể không coi những lời hứa này như đã được ứng nghiệm nơi cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô, nguồn mạch của sự sống mới. Trong Phúc Âm theo thánh Gioan, chúng ta chiêm nghiệm về sự ứng nghiệm đó. Từ cạnh sườn bị thương của Chúa Giêsu, nước của Thánh Thần tuôn ra: “Một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu và nước chảy ra” (Ga 19,34). Lúc ấy, vị thánh sử nhớ lại lời tiên tri đã được nói về một suối nước mở ra ở Giêrusalem và về Đấng bị đâm thâu (Ga 19,37; x. Dcr 12,10). Suối nước mở ra là cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô.

97. Trước đó, Phúc Âm Gioan đã nói về sự kiện này, khi vào “ngày bế mạc của dịp lễ” (Ga 7,37), Đức Giêsu đã lớn tiếng nói với những người đang trong đoàn rước lớn: “Ai khát hãy đến cùng tôi và uống… từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37-38). Tuy nhiên, để điều này được hoàn thành, thì “giờ” của Chúa Giêsu phải đến, vì Người “vẫn chưa được tôn vinh” (Ga 7,39). Sự ứng nghiệm đó phải đến trên thập giá, trong máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa.

98. Sách Khải Huyền nối tiếp những lời tiên tri về Đấng bị đâm thâu và về suối nước: “Mọi con mắt sẽ nhìn thấy Người, ngay cả những kẻ đã đâm Người” (Kh 1,7); “Ai khát hãy đến; ai muốn, hãy nhận lấy nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22,17).

99. Cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu là nguồn tình yêu mà Thiên Chúa đã thể hiện cho dân Người theo vô số cách thức. Ta hãy nhớ lại một số lời của Ngài:

“Vì trước mắt Ta ngươi thật quí giá, ngươi được Ta trân trọng và yêu thương” (Is 43,4).

“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta cũng không quên ngươi bao giờ. Này, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49,15-16).

“Vì núi có thể dời, đồi có thể chuyển, nhưng tình thương của Ta đối với ngươi sẽ không rời khỏi ngươi, và giao ước bình an của Ta sẽ không bị hủy bỏ” (Is 54,10).

“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở; nên Ta vẫn trung thành với ngươi” (Gr 31,3).

“Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đang ở giữa ngươi, Người là chiến binh ban cho ngươi chiến thắng; Người sẽ vui mừng vì ngươi, Người sẽ đổi mới ngươi trong tình yêu của Người; vì ngươi, Người sẽ nhảy múa tưng bừng” (Xp 3,17).

100. Ngôn sứ Hôsê còn đi xa đến mức nói về trái tim của Thiên Chúa, Đấng “dẫn dắt họ bằng dây nhân nghĩa, bằng dây ân tình” (Hs 11,4). Khi tình yêu đó bị khinh thường, Chúa có thể nói: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi (Hs 11,:8). Tình yêu thương xót của Thiên Chúa luôn chiến thắng (x. Hs 11,9), và tình yêu đó sẽ tìm thấy sự biểu lộ tột đỉnh trong Chúa Kitô, Lời yêu thương dứt khoát của Thiên Chúa.

101. Trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô là hiện thân của tất cả những lời tuyên bố về tình yêu của Thiên Chúa có trong Kinh Thánh. Tình yêu đó không chỉ là những lời nói; đúng hơn, cạnh sườn mở ra của Con Thiên Chúa là nguồn sự sống cho những ai Người yêu thương, là mạch nước làm thỏa cơn khát của dân Người. Như thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra: “Các yếu tố thiết yếu của lòng sùng kính [đối với Thánh Tâm] nằm trong một thể cách thường xuyên của linh đạo Giáo hội qua dòng lịch sử; vì ngay từ đầu, Giáo hội đã hướng về trái tim của Chúa Kitô bị đâm thâu trên Thập giá”.[84]

NHỮNG ÂM VỌNG CỦA LỜI TRONG LỊCH SỬ

102. Ta hãy xem xét một số cách mà trong lịch sử đức tin Kitô giáo, những lời tiên tri ấy được hiểu là đã ứng nghiệm. Nhiều Giáo phụ của Giáo hội, đặc biệt các vị ở Tiểu Á, đã nói về cạnh sườn bị thương của Chúa Giêsu như nguồn nước của Chúa Thánh Thần: lời, ân sủng của lời, và các bí tích chuyển đạt lời. Lòng can đảm của các vị tuẫn đạo được sinh ra từ “mạch nước hằng sống thiên đàng chảy ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô”[85] hoặc theo phiên bản của Rufinus thì đó là: “những dòng nước thiên đàng vĩnh cửu chảy ra từ trái tim của Chúa Kitô”.[86] Các tín hữu chúng ta được tái sinh trong Chúa Thánh Thần, xuất hiện từ khe nứt trên tảng đá; “chúng ta đã xuất hiện từ trái tim của Chúa Kitô”.[87] Cạnh sườn bị thương của Người, được hiểu là trái tim Người, tràn đầy Chúa Thánh Thần, đến với chúng ta như một dòng nước hằng sống. “Mạch suối Thánh Thần hoàn toàn ở trong Chúa Kitô”.[88] Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận không làm chúng ta xa cách Chúa Phục sinh, mà lấp đầy chúng ta bằng sự hiện diện của Người, vì khi uống Chúa Thánh Thần, chúng ta uống chính Chúa Kitô. Thánh Ambrôsiô nói: “Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là tảng đá tuôn trào dòng nước. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là nguồn sự sống. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là dòng sông chảy ra bao nhánh đem niềm vui cho thành của Chúa Trời. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là sự bình an của chúng ta. Hãy uống Chúa Kitô, vì từ cạnh sườn Người chảy ra dòng nước hằng sống”.[89]

103. Thánh Augustinô đã mở đường cho lòng sùng kính Thánh Tâm như là nơi gặp gỡ cá nhân của chúng ta với Chúa. Đối với Augustinô, cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô không chỉ là nguồn của ân sủng và các bí tích, mà còn là biểu tượng cho sự kết hợp mật thiết của chúng ta với Chúa Kitô, là bối cảnh của một cuộc gặp gỡ yêu thương. Ở đó chúng ta tìm thấy nguồn gốc của sự khôn ngoan quý giá nhất trong tất cả, đó là sự hiểu biết Chúa. Thực tế, Augustinô viết rằng Gioan, môn đệ được Chúa yêu, dựa vào lòng Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, đã đến gần nơi giấu ẩn của sự khôn ngoan.[90] Ở đây chúng ta không chỉ có sự chiêm nghiệm đơn thuần của trí năng đối với một chân lý thần học trừu tượng. Như thánh Giêrôm giải thích, một người có khả năng chiêm nghiệm “không chỉ vui thích trước vẻ đẹp của dòng nước đó, nhưng uống lấy nước hằng sống chảy ra từ cạnh sườn Chúa”.[91]

104. Thánh Bênađô quan tâm tới biểu tượng cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa, và hiểu rõ ràng đó là một sự mặc khải và tuôn đổ toàn bộ tình yêu của trái tim Người. Qua vết thương đó, Chúa Kitô mở trái tim Người cho chúng ta và cho phép chúng ta hưởng mầu nhiệm của tình yêu và lòng thương xót vô biên của Người: “Tôi lấy từ lòng Chúa những gì còn thiếu đối với tôi, vì lòng Người tràn ngập lòng thương xót chảy qua những lỗ. Những kẻ đóng đinh Người đã làm thủng tay chân Người, chúng đâm thủng cạnh sườn Người bằng một ngọn giáo. Và qua những lỗ đó, tôi có thể nếm được mật ong rừng và dầu từ những tảng đá, nghĩa là tôi có thể nếm và nhận ra Chúa tốt lành… Một ngọn giáo đã xuyên qua tâm hồn Người thậm chí đến tận vùng trái tim Người. Người không thể nào không thương xót sự yếu đuối của tôi. Những vết thương trên thân xác Người đã bộc lộ cho chúng ta những bí mật trong trái tim Người; chúng cho phép chúng ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm lòng trắc ẩn cao cả của Người”.[92]

105. Chủ đề này lại xuất hiện đặc biệt nơi William ở Saint-Thierry, là người mời gọi chúng ta đi vào trái tim Chúa Giêsu, Đấng nuôi chúng ta từ chính bầu ngực của Người.[93] Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta nhớ lại rằng đối với William, “nghệ thuật của hội họa là nghệ thuật của tình yêu… Tình yêu được đánh thức bởi Đấng Tạo Hóa của thiên nhiên, và là sức mạnh của tâm hồn dẫn dắt nó đến đúng nơi và là đích điểm của nó – như thể bằng trọng lực tự nhiên của nó vậy”.[94] Nơi thích hợp đó, nơi tình yêu ngự trị trọn vẹn, chính là trái tim của Chúa Kitô: “Lạy Chúa, Chúa dẫn dắt đến nơi đâu những người mà Chúa ôm lấy và giữ chặt vào trái tim Chúa? Lạy Chúa Giêsu, trái tim Chúa là manna ngọt ngào thiên tính của Chúa mà Chúa giữ trong chiếc bình vàng là linh hồn Chúa (x. Dt 9,4), và vượt quá mọi hiểu biết. Phúc cho những ai, sau khi lao vào những tầm sâu thẳm ấy, đã được Chúa ẩn giấu trong góc sâu của trái tim Chúa”.[95]

106. Thánh Bonaventura kết hợp hai trào lưu linh đạo này. Ngài trình bày trái tim của Chúa Kitô như là nguồn của các bí tích và ân sủng, và thúc giục để việc chúng ta chiêm ngưỡng trái tim đó trở thành mối tương quan giữa những người bạn, một cuộc gặp gỡ riêng tư của tình yêu.

107. Bonaventura giúp chúng ta trước hết trân trọng vẻ đẹp của ân sủng và các bí tích chảy ra từ nguồn mạch sự sống là cạnh sườn bị thương của Chúa. “Một người lính đã lấy đòng đâm và mở cạnh sườn Người, để từ cạnh sườn của Chúa Kitô đang ngủ trên thập giá, Giáo hội có thể được hình thành và Kinh Thánh được ứng nghiệm rằng: ‘Họ sẽ nhìn lên Đấng mà họ đã đâm thâu’. Điều này được Chúa Quan phòng cho phép, để từ máu và nước chảy ra từ vết thương đó, giá của sự cứu rỗi chúng ta có thể chảy ra từ nguồn suối ẩn giấu là trái tim Người, làm cho các bí tích của Giáo hội có thể ban sự sống ân sủng, và như vậy giống như một chén được đổ đầy từ nguồn mạch trào lên sự sống vĩnh cửu”.[96]

108. Rồi Bonaventura kêu gọi chúng ta đi một bước nữa, để việc chúng ta tiếp cận ân sủng không bị coi là một loại phép thuật hay sự lan tỏa xu hướng tân Platon, mà đúng hơn là một tương quan trực tiếp với Chúa Kitô, một sự nương náu trong trái tim Người, để bất kỳ ai uống từ nguồn đó đều trở thành bạn hữu của Chúa Kitô, một trái tim đầy yêu thương. “Vậy hãy trỗi dậy, hỡi linh hồn là bạn của Chúa Kitô, hãy là chim bồ câu làm tổ trong khe đá; hãy là chim sẻ tìm thấy được mái ấm và không ngừng canh giữ; hãy là chim gáy giấu ẩn đứa con của tình yêu tinh tuyền trong khe đá vô cùng thánh thiện ấy”.[97]

SỰ TRUYỀN BÁ LÒNG SÙNG KÍNH TRÁI TIM CHÚA KITÔ

109. Dần dần, cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô, là nơi của tình yêu Người và là suối nguồn của đời sống ân sủng, bắt đầu được liên kết với trái tim Chúa, đặc biệt là trong đời sống đan tu. Chúng ta biết rằng trong dòng lịch sử, lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô không phải luôn luôn được diễn tả theo cùng một cách, và rằng những phát triển hiện đại của nó – liên quan đến nhiều kinh nghiệm tâm linh khác nhau – không thể rút ra trực tiếp từ các hình thức thời Trung cổ, càng không thể rút ra từ các hình thức thuộc Thánh Kinh mà trong đó chúng ta thoáng thấy những hạt giống của lòng sùng kính này. Mặc dù vậy, Giáo hội ngày nay không loại bỏ bất cứ điều gì tốt lành mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta qua các thế kỷ, vì Giáo hội biết rằng mình luôn có thể phân định một ý nghĩa rõ ràng và sâu xa hơn trong một số khía cạnh của lòng sùng kính đó, và đạt được những nhận thức mới theo thời gian.

110. Một số phụ nữ thánh thiện, khi kể lại những kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô, đã nói về việc nghỉ ngơi trong trái tim Chúa như nguồn của sự sống và sự bình an nội tâm. Đây là trường hợp của các thánh Lutgarde và Mechtilde ở Hackeborn, thánh Angela ở Foligno và Julian ở Norwich, và nhiều vị khác. Thánh Gertrude ở Helfta, một đan nữ Xitô, kể về một lần khi cầu nguyện ngài tựa đầu vào trái tim Chúa Kitô và nghe thấy nhịp đập của trái tim ấy. Trong một cuộc đối thoại với thánh sử Gioan, ngài đã hỏi tại sao vị thánh sử không mô tả trong Phúc Âm của mình những cảm nghiệm khi tựa đầu như vậy. Gertrude kết luận rằng “âm thanh ngọt ngào của những nhịp đập trái tim đó đã được dành riêng cho thời hiện đại, để khi nghe thấy chúng, thế giới già nua và nguội lạnh của chúng ta có thể được đổi mới trong tình yêu của Thiên Chúa”.[98] Phải chăng ta cũng có thể nghĩ rằng đây thực sự là một thông điệp cho thời đại của mình, một lời kêu gọi nhận ra rằng thế giới của chúng ta thực sự đã “già đi”, và cần phải nắm hiểu lại sứ điệp yêu thương của Chúa Kitô? Thánh Gertrude và thánh Mechtilde được coi là “những người bạn tâm giao thân thiết nhất của Thánh Tâm Chúa”.[99]

111. Các tu sĩ Carthusian, được khuyến khích hơn hết bởi Ludolph Saxony, đã tìm thấy nơi lòng sùng mộ Thánh Tâm một phương tiện để phát triển tình cảm và sự gần gũi với Chúa Kitô. Tất cả những ai bước vào vết thương của trái tim Người đều được đốt cháy lửa tình yêu. Thánh Catarina Siena đã viết rằng những đau khổ của Chúa là điều chúng ta không thể hiểu được, nhưng trái tim rộng mở của Chúa Kitô cho phép chúng ta có một cuộc gặp gỡ riêng tư sống động với tình yêu vô biên của Người. “Ta muốn vén mở cho con bí mật của trái tim Ta, cho phép con thấy nó mở ra, để con hiểu được rằng Ta đã yêu con nhiều hơn những gì có thể đã được chứng tỏ qua sự đau khổ mà Ta từng phải chịu”.[100]

112. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô dần vượt ra khỏi các bức tường của các đan viện để làm phong phú cho linh đạo của các thầy dạy, các nhà giảng thuyết và các vị sáng lập các dòng tu, những vị này tiếp tục truyền bá nó đến khắp nơi trên thế giới.[101]

113. Đặc biệt có ý nghĩa là sáng kiến của thánh Gioan Eudes – “sau sứ vụ rao giảng rất hăng hái cùng các anh em mình ở Rennes, [ngài]đã thuyết phục vị giám mục giáo phận chấp thuận việc cử hành lễ Trái Tim Đáng Tôn Thờ của Chúa Giêsu Kitô. Đây là lần đầu tiên một lễ như vậy được chính thức cho phép trong Giáo hội. Sau đó, khoảng giữa năm 1670 và 1671, các giám mục của Coutances, Evreux, Bayeux, Lisieux và Rouen đã cho phép cử hành lễ này trong các giáo phận của mình”.[102]

THÁNH PHANXICÔ SALÊSIÔ

114. Trong thời hiện đại, cần phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng của thánh Phanxicô Salêsiô. Phanxicô thường chiêm ngắm trái tim rộng mở của Chúa Kitô, trái tim mời gọi chúng ta ở lại trong đó, trong một tương quan yêu thương cá vị giúp làm sáng tỏ các mầu nhiệm trong cuộc đời của Người. Trong các tác phẩm của mình, vị Tiến sĩ thánh thiện của Giáo hội phản đối một nền đạo đức khắc nghiệt và một lòng đạo nệ luật bằng cách trình bày trái tim Chúa Giêsu như một lời kêu gọi tín thác hoàn toàn vào hoạt động mầu nhiệm của ân sủng Người. Chúng ta thấy điều này được diễn đạt trong lá thư ngài gửi cho thánh Jane Francis de Chantal: “Tôi chắc chắn rằng chúng ta sẽ không còn ở lại trong chính mình nữa… nhưng sẽ mãi mãi ở trong cạnh sườn mang thương tích của Chúa, vì nếu tách khỏi Người, chúng ta không những không thể làm gì, mà ngay cả khi có thể, chúng ta cũng sẽ không có khao khát để làm bất cứ gì”.[103]

115. Đối với Phanxicô Salêsiô, lòng sùng mộ đích thực không liên quan gì đến mê tín hay lòng đạo đức hời hợt, vì nó gắn với một tương quan cá vị trong đó mỗi người chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô biết đến và yêu thương một cách độc đáo và riêng biệt. “Trái tim đáng yêu và đáng tôn thờ vô cùng này của Tôn Sư chúng ta, cháy bỏng tình yêu mà Người bày tỏ với chúng ta, [là] một trái tim mà ở đó tất cả tên của chúng ta được ghi… Quả thật là một nguồn an ủi sâu xa khi biết rằng chúng ta được Chúa yêu thương sâu sắc đến vậy, Người luôn mang chúng ta trong trái tim Người”.[104] Với hình ảnh tên chúng ta được viết nơi trái tim của Chúa Kitô, thánh Phanxicô đã muốn diễn tả mức độ mà tình yêu của Chúa Kitô dành cho mỗi người chúng ta không phải là điều gì đó trừu tượng và chung chung, mà hoàn toàn cá vị, cho phép mỗi tín hữu cảm thấy mình được biết đến và được tôn trọng vì con người của mình. “Thiên đàng này đáng yêu biết bao, nơi Chúa là mặt trời và ngực Người là nguồn suối tình yêu mà những ai được chúc phúc sẽ uống thỏa thích! Mỗi chúng ta có thể nhìn vào đó và thấy tên mình được khắc bằng những ký tự của tình yêu, chỉ có tình yêu đích thực mới có thể đọc được các tên ấy, vốn đã được tình yêu đích thực viết ra. Lạy Chúa mến yêu! Và còn gì nữa, hỡi nữ tử yêu dấu, về những người thân yêu của chúng ta? Chắc chắn họ cũng sẽ ở đó; vì ngay cả khi trái tim chúng ta không có tình yêu, thì nó vẫn có nỗi khát khao về tình yêu và có những khởi đầu của tình yêu”.[105]

116. Thánh Phanxicô coi kinh nghiệm này về tình yêu của Chúa Kitô như là cốt yếu cho đời sống thiêng liêng, thực sự là một trong những chân lý lớn của đức tin: “Vâng, hỡi nữ tử yêu dấu, Người nghĩ đến con và không chỉ thế, Người nghĩ đến cả từng sợi tóc mỏng mảnh nhất trên đầu con: đây là một điều khoản của đức tin và không thể nghi ngờ gì cả”.[106] Vì thế, người tín hữu có khả năng phó thác hoàn toàn vào trái tim Chúa Kitô, nơi họ tìm thấy sự nghỉ ngơi, an ủi và sức mạnh: “Lạy Chúa! Thật hạnh phúc biết bao khi được ôm lấy và được ngả vào lòng Đấng Cứu Thế. Hãy ở lại đó, hỡi nữ tử yêu dấu, giống như một tâm hồn bé nhỏ khác là thánh Gioan, trong khi những người xung quanh đang thưởng thức những món ăn khác nhau trên bàn ăn của Chúa, hãy tựa đầu, tựa linh hồn và thần trí của con vào lòng yêu thương của vị Chúa đáng yêu mến này, trong một cử chỉ hoàn toàn tín thác”.[107] “Ta hy vọng rằng con đang nghỉ ngơi trong khe đá của chim gáy và trong cạnh sườn Đấng Cứu Thế dấu yêu bị đâm thủng của chúng ta… Chúa chúng ta tốt lành biết bao, hỡi nữ tử yêu dấu của ta! Trái tim của Người yêu thương biết bao! Chúng ta hãy ở lại đây, trong nơi nương náu thánh thiện này”.[108]

117. Đồng thời, trung thành với giáo huấn của mình về sự thánh hóa cuộc sống thường ngày, thánh Phanxicô gợi ý rằng kinh nghiệm này diễn ra giữa các hoạt động, các công việc bổn phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta. “Về những linh hồn qua cầu nguyện được thu hút vào sự đơn sơ thánh thiện này, sự phó thác hoàn toàn này vào Thiên Chúa – bạn hỏi tôi: Những linh hồn ấy nên hành xử thế nào trong mọi hành động của mình? Tôi sẽ trả lời rằng không chỉ trong cầu nguyện, mà còn trong lối sống hàng ngày, họ nên luôn tiến tới trong tinh thần đơn sơ, siêu thoát và hoàn toàn đặt tâm hồn mình, các hành động và những thành tựu của mình qui phục thánh ý Thiên Chúa. Và hãy làm như vậy với một tình yêu được đánh dấu bằng sự tin tưởng hoàn toàn và tuyệt đối, phó thác bản thân cho ân sủng và cho sự chăm sóc của tình yêu vĩnh cửu mà Chúa Quan phòng ban cho mình”.[109]

118. Vì lý do này, khi tìm kiếm một biểu tượng để chuyển tải tầm nhìn của mình về đời sống tâm linh, Phanxicô Salêsiô đã kết luận: “Mẹ yêu dấu, nếu Mẹ đồng ý, con nghĩ rằng chúng ta nên lấy biểu tượng là một trái tim bị hai mũi tên đâm thủng, toàn bộ được bao bọc trong một vòng gai”.[110]

MỘT TUYÊN NGÔN MỚI VỀ TÌNH YÊU

119. Từ ảnh hưởng lành mạnh của linh đạo Salêdiêng này, các sự kiện ở Paray-le-Monial đã diễn ra vào cuối thế kỷ 17. Thánh Margaret Marie Alacoque đã tường thuật một loạt các lần hiện ra đáng chú ý của Chúa Kitô giữa cuối tháng 12 năm 1673 và tháng 6 năm 1675. Nền tảng của những sự kiện này là một lời tuyên bố về tình yêu nổi bật trong lần hiện ra đầu tiên. Chúa Giêsu đã nói: “Trái tim thần linh của Ta cháy bỏng tình yêu đối với loài người, và đặc biệt đối với con, đến nỗi không còn có thể kìm nén nơi mình ngọn lửa của yêu thương nồng cháy, nó phải tuôn đổ qua con và được biểu lộ cho mọi người, để làm cho mọi người nên phong phú bằng những kho tàng quý giá mà giờ đây Ta tiết lộ cho con”.[111]

120. Tường thuật của thánh Margaret Marie rất mạnh mẽ và gây cảm động sâu xa: “Người đã mạc khải cho tôi những điều kỳ diệu nơi tình yêu của Người và những bí mật không thể giải thích được của Thánh Tâm Người mà Người vẫn giấu kín đối với tôi cho đến khi Người mở nó ra cho tôi lần đầu tiên, một cách ấn tượng và thuyết phục đến nỗi Người không để tôi có chỗ nào mà nghi ngờ”.[112] Trong những lần hiện ra sau đó, thông điệp đầy an ủi đó đã được nhắc lại: “Người đã tiết lộ cho tôi những điều kỳ diệu không thể diễn tả được của tình yêu thuần khiết nơi Người, và tình yêu đó đã làm cho Người yêu nhân loại đến mức nào”.[113]

121. Nhận thức mạnh mẽ này về tình yêu của Chúa Giêsu Kitô mà thánh Margaret Marie để lại cho chúng ta có thể thúc đẩy chúng ta kết hợp mật thiết hơn với Người. Chúng ta không cần phải cảm thấy bắt buộc phải chấp nhận hoặc nắm được mọi chi tiết trong kinh nghiệm tâm linh của Margaret, trong đó, như thường xảy ra, sự can thiệp của Thiên Chúa kết hợp với các yếu tố của con người liên quan đến những khát vọng, những quan tâm và những hình ảnh trong nội tâm của cá nhân.[114] Những kinh nghiệm như thế phải luôn được diễn giải dưới ánh sáng của Phúc Âm và truyền thống linh đạo phong phú của Giáo hội, ngay cả khi chúng ta thừa nhận những điều tốt đẹp mà chúng đem lại cho nhiều anh chị em của mình. Theo đó, chúng ta có thể nhận ra những ân ban của Chúa Thánh Thần hiện diện trong các kinh nghiệm đức tin và đức mến đó. Quan trọng hơn bất kỳ chi tiết riêng biệt nào là cốt lõi của thông điệp được trao cho chúng ta, có thể được tóm tắt trong những lời mà thánh Margaret Marie đã nghe: “Đây là trái tim đã yêu thương con người đến nỗi không tiếc điều gì, thậm chí đến mức trút rỗng và tiêu hủy chính nó để cho thấy tình yêu của nó”.[115]

122. Như thế, sự kiện hiện ra này mời gọi chúng ta lớn lên trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, đặt trọn lòng tin tưởng vào tình yêu của Người, cho đến khi chúng ta đạt được sự kết hợp trọn vẹn và dứt khoát với Người. “Trái tim thần linh của Chúa Giêsu cần phải thay thế trái tim của chúng ta theo một cách nào đó; cần phải để cho một mình Người sống và hoạt động trong chúng ta và vì chúng ta; ý chí của Người… cần phải hoạt động cách tuyệt đối và không có bất kỳ sự kháng cự nào từ phía chúng ta; và cuối cùng là tình cảm, tư tưởng và ước muốn của trái tim Người cần phải thay thế cho tình cảm, tư tưởng và ước muốn của chúng ta, đặc biệt là tình yêu của Người, để Người được yêu nơi chính Người và vì chúng ta. Vì thế, trái tim đáng yêu mến này là tất cả của chúng ta, để ta có thể nói cùng với thánh Phaolô rằng chúng ta không còn sống cuộc sống của mình nữa, nhưng chính Người sống trong chúng ta”.[116]

123. Trong sứ điệp đầu tiên mà thánh Margaret Marie nhận được, lời mời gọi này đã được diễn tả bằng những từ ngữ sống động, nồng nhiệt và yêu thương. “Người đã xin trái tim tôi, và tôi đã xin Người cứ nhận lấy, Người đã nhận, và rồi Người đặt tôi vào trong trái tim đáng tôn thờ của Người, qua đó Người cho tôi thấy trái tim tôi giống như một nguyên tử bé nhỏ bị thiêu rụi trong lò lửa của chính trái tim Người”.[117]

124. Mặt khác, chúng ta thấy rằng Đấng hiến mình cho chúng ta là Chúa Kitô phục sinh và vinh quang, tràn đầy sự sống và ánh sáng. Đành rằng nhiều lúc Người đã nói về sự đau khổ mà Người phải chịu vì chúng ta và về sự vô ơn đáp lại, thì điều chúng ta thấy ở đây không phải là máu và những vết thương đau đớn của Người cho bằng là ánh sáng và ngọn lửa của Chúa sự sống. Những vết thương của cuộc khổ nạn không biến mất, nhưng giờ đây đã được biến hình. Ở đây, chúng ta thấy mầu nhiệm Vượt qua trong tất cả sự huy hoàng của nó: “Một lần, khi Mình Thánh Chúa được đặt lên, Chúa Giêsu hiện ra, rực rỡ vinh quang, với năm vết thương của Người trông giống như rất nhiều mặt trời bùng cháy từ nhân tính thánh thiện của Người, nhưng trên hết là từ ngực đáng yêu của Người, trông giống như một lò lửa. Mở áo choàng ra, Người để lộ trái tim đầy yêu thương và hết sức đáng yêu của Người, đó là nguồn của những ngọn lửa ấy. Sau đó, tôi đã khám phá ra những điều kỳ diệu khôn tả về tình yêu thuần khiết của Người, Người yêu thương con người đến cùng bằng tình yêu ấy, nhưng chỉ nhận được từ họ sự vô ơn và thờ ơ”.[118]

THÁNH CLAUDE DE LA COLOMBIÈRE

125. Khi thánh Claude de La Colombière biết về những kinh nghiệm của thánh Margaret Marie, ngài đã ngay lập tức bảo vệ Margaret và bắt đầu truyền bá thông tin về các cuộc hiện ra. Thánh Claude đã đóng một vai trò đặc biệt trong việc phát triển sự hiểu biết về lòng sùng kính Thánh Tâm và ý nghĩa của nó dưới ánh sáng Phúc Âm.

126. Một số ngôn ngữ của thánh Margaret Marie, nếu không được hiểu rõ, có thể gợi ý về sự tin tưởng không phù hợp đặt vào những hy sinh và lễ vật cá nhân của chúng ta. Thánh Claude nhấn mạnh rằng việc chiêm ngắm trái tim Chúa Giêsu, nếu chân thực, sẽ không gây ra sự tự mãn hay sự tự tin phù phiếm vào những kinh nghiệm của chính chúng ta hay những nỗ lực con người, mà đúng hơn đó là sự phó thác hết mực vào Chúa Kitô, nhờ đó cuộc sống chúng ta sẽ được lấp đầy bằng sự bình an, an ninh và quyết tâm. Ngài đã diễn tả sự tin tưởng tuyệt đối này cách hùng hồn nhất trong một lời cầu nguyện nổi tiếng:

“Lạy Chúa, con tin chắc rằng Chúa luôn để mắt đến những ai hy vọng vào Chúa, chúng con không thiếu thốn điều gì khi chúng con cậy dựa hoàn toàn vào Chúa, và con quyết tâm trong tương lai sẽ sống tự do khỏi mọi lo toan và trao phó mọi phiền muộn của mình cho Chúa… Con sẽ không bao giờ đánh mất hy vọng. Con sẽ giữ nó cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời; và vào lúc đó, tất cả quỷ trong địa ngục sẽ cố sức giựt niềm hy vọng đó khỏi con… Thiên hạ có thể tìm kiếm hạnh phúc từ của cải hay tài năng của họ; thiên hạ có thể dựa vào sự vô tội trong đời sống của họ, hoặc sự nghiêm chỉnh trong việc sám hối của họ, hoặc số lượng bố thí của họ, hoặc lòng sốt sắng trong lời cầu nguyện của họ. Đối với con, lạy Chúa, tất cả sự tin tưởng của con là chính sự tin tưởng. Sự tin tưởng này chưa bao giờ lừa dối bất kỳ ai… Vì vậy, con chắc chắn rằng con sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, vì con hy vọng vững chắc như thế, và lạy Chúa, chính bởi Chúa mà con hy vọng điều đó”.[119]

127. Trong một ghi chú vào tháng 1 năm 1677, sau khi đề cập đến sự bảo đảm mà ngài cảm nhận về sứ mạng của mình, Claude tiếp tục: “Tôi đã bắt đầu biết rằng Chúa muốn tôi phục vụ Người bằng cách đạt được trọn vẹn những mong muốn của Người liên quan đến lòng sùng kính Người đã gợi ý cho một người mà Người tin tưởng truyền đạt, và vì lợi ích của người ấy mà Người muốn dùng sự yếu đuối của tôi. Tôi đã dùng nó để giúp đỡ một số người”.[120]

128. Phải nhìn nhận rằng linh đạo của Chân phước Claude de La Colombière đã đem lại một tổng hợp tinh tế giữa kinh nghiệm tâm linh sâu sắc và đầy cảm kích của thánh Margaret Marie và hình thức chiêm nghiệm sống động và cụ thể được tìm thấy trong Linh Thao của thánh Inhaxiô Loyola. Vào đầu tuần thứ ba của Linh Thao, Claude đã suy ngẫm: “Có hai điều đã làm tôi xúc động theo một cách đáng kinh ngạc. Thứ nhất, thái độ của Chúa Kitô đối với những người tìm cách bắt Người. Trái tim Người đầy buồn phiền xót xa; mọi xung năng hung dữ đều được giải phóng chống lại Người và toàn bộ tự nhiên đang hỗn loạn, nhưng giữa tất cả sự hỗn loạn này, tất cả những cám dỗ này, trái tim Người vẫn kiên định hướng về Thiên Chúa. Người không ngần ngại chọn theo nhân đức và là nhân đức cao nhất. Thứ hai, thái độ của chính trái tim đó đối với Giuđa, kẻ đã phản bội Người, đối với các tông đồ hèn nhát đã bỏ rơi Người, đối với các thượng tế và những người khác chịu trách nhiệm về cuộc bách hại mà Người phải chịu; không gì trong tất cả những điều ấy có thể khơi lên trong Người một chút cảm giác oán hận hay phẫn nộ. Một lần nữa tôi đến trước trái tim này, không giận dữ, không cay đắng, thay vào đó là tràn đầy lòng thương cảm chân thành đối với những kẻ thù của trái tim ấy”.[121]

THÁNH CHARLES DE FOUCAULD VÀ THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

129. Thánh Charles de Foucauld và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tuy không chủ ý, song đã định hình lại một số khía cạnh của lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô và qua đó giúp chúng ta hiểu lòng sùng kính này theo một tinh thần mang tính Phúc Âm hơn nữa. Giờ đây chúng ta hãy xem xét lòng sùng kính này được thể hiện như thế nào trong đời sống của các ngài. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ quay lại với các ngài, để minh họa chiều kích sứ mạng nổi bật mà mỗi vị đã mang đến cho lòng sùng kính này.

Iesus Caritas

130. Ở Louye, Charles de Foucauld quen đến viếng Mình Thánh Chúa cùng với người chị họ của mình, Marie de Bondy. Một ngày nọ, chị ấy đã cho Charles xem một bức ảnh Thánh Tâm.[122] Người chị họ này đã đóng một vai trò trọng yếu trong cuộc hoán cải của Charles, như chính ngài đã thừa nhận: “Vì Chúa đã biến chị thành khí cụ đầu tiên của lòng thương xót của Người đối với tôi, nên mọi thứ khác bắt đầu từ chị. Nếu chị không giúp tôi hoán cải, đưa tôi đến với Chúa Giêsu và dạy tôi từng chút một, từng chữ một, tất cả những gì thánh thiện và tốt lành, thì hôm nay tôi sẽ ở đâu?”[123] Điều Marie đánh thức trong Charles là một nhận thức thâm sâu về tình yêu của Chúa Giêsu. Đó là điều cốt yếu, và tập trung vào lòng sùng kính trái tim Chúa Giêsu, nơi ngài gặp được lòng thương xót vô biên: “Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót vô hạn của Đấng mà chị đã dẫn tôi đến để biết trái tim Người”.[124]

131. Sau đó, cha linh hướng của ngài, Cha Henri Huvelin, đã giúp Charles hiểu sâu hơn về mầu nhiệm vô giá của “trái tim diễm phúc mà cha đã nói với con rất nhiều lần”.[125] Vào ngày 6 tháng 6 năm 1889, Charles đã dâng mình cho Thánh Tâm, nơi ngài tìm thấy tình yêu vô biên. Ngài nói với Chúa Kitô: “Chúa đã ban cho con rất nhiều ơn lành, đến nỗi sẽ là vô ơn đối với trái tim Chúa nếu như con không tin rằng trái tim Chúa sẵn sàng ban cho con mọi điều tốt lành, không giới hạn mức độ, và nếu con không tin rằng tình yêu và lòng quảng đại của Chúa là vô biên”.[126] Charles đã trở thành một ẩn sĩ “dưới danh nghĩa trái tim Chúa Giêsu”.[127]

132. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1906, đúng ngày mà Charles, một mình, không thể cử hành Thánh lễ nữa, ngài đã viết về lời hứa của mình “để trái tim Chúa Giêsu sống trong tôi, để không còn là tôi sống, mà là trái tim Chúa Giêsu sống trong tôi, như Người đã sống ở Nadaret”.[128] Tình bạn của ngài với Chúa Giêsu, từ trái tim đến trái tim, không phải là một lòng đạo đức riêng tư. Nó đã truyền cảm hứng cho cuộc sống khắc khổ mà ngài đã sống ở Nadaret, xuất phát từ mong muốn bắt chước Chúa Kitô và trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Lòng sùng kính đầy yêu thương của ngài đối với trái tim Chúa Giêsu đã có tác động cụ thể đến lối sống của ngài, và Nadaret của ngài được nuôi dưỡng bởi mối tương quan cá vị của ngài với trái tim Chúa Kitô.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

133. Giống như thánh Charles de Foucauld, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhận ảnh hưởng của sự canh tân lòng sùng kính đã lan rộng khắp nước Pháp vào thế kỷ 19. Cha Almire Pichon, vị linh hướng của gia đình, được coi là một tông đồ nhiệt thành của Thánh Tâm. Một trong những người chị của Têrêsa lấy tên dòng là “Nữ tu Marie Thánh Tâm”, và đan viện mà Têrêsa gia nhập được cung hiến cho Thánh Tâm. Tuy nhiên, lòng sùng kính của Têrêsa đã mang một số nét riêng biệt trong đối chiếu với lòng đạo đức thông thường của thời đó.

134. Khi mười lăm tuổi, Têrêsa có thể nói về Chúa Giêsu như là Đấng “có trái tim đập cùng nhịp với trái tim tôi”.[129] Hai năm sau, khi nói về hình ảnh trái tim của Chúa Kitô đội mão gai, Têrêsa đã viết trong một lá thư: “Chị biết rằng em không nhìn Thánh Tâm như mọi người khác. Em nghĩ rằng Trái Tim của Phu Quân chỉ là của riêng em, cũng như trái tim em là của riêng Người, và vì thế em nói chuyện với Người trong sự riêng tư của cuộc trao đổi lòng kề lòng thú vị này, trong khi chờ đợi một ngày được chiêm ngưỡng Người mặt đối mặt”.[130]

135. Trong một bài thơ của mình, Têrêsa đã nói lên ý nghĩa của lòng sùng mộ ấy, liên quan nhiều đến tình bạn và sự tín thác hơn là cậy dựa vào những hy sinh của mình:

“Tôi cần một trái tim cháy lửa dịu dàng,
Người sẽ là chỗ dựa của tôi mãi mãi,
Người yêu thương mọi thứ trong tôi, cả sự yếu đuối …
Và Người không bao giờ rời tôi, ngày hay đêm…
Tôi phải có một Thiên Chúa mang lấy bản tính của tôi,
Và trở thành người anh, có thể chịu đựng! …
Ôi! Con biết rõ, tất cả sự công chính của chúng con
Đều vô giá trị trước mắt Chúa…
Vì vậy, hỡi trái tim Thiên Chúa của con, con chọn tình yêu cháy bỏng của Chúa
Làm luyện ngục cho mình!”[131]

136. Có lẽ bản văn quan trọng nhất để hiểu lòng sùng kính của Têrêsa đối với trái tim Chúa Kitô là một lá thư mà ngài viết ba tháng trước khi qua đời cho người bạn là Maurice Bellière. “Khi tôi thấy Maria Mađalêna bước tới trước nhiều vị khách, tuôn nước mắt rửa chân cho Thầy đáng kính của mình, người mà lần đầu tiên chị chạm đến, tôi cảm thấy rằng trái tim của chị đã hiểu được những vực thẳm không đáy của tình yêu và lòng thương xót nơi trái tim Chúa Giêsu, và mặc dù chị là tội nhân, trái tim yêu thương này không chỉ sẵn sàng tha thứ cho chị mà còn tuôn đổ trên chị phúc lành từ sự mật thiết thần linh của Người, nâng chị lên những đỉnh cao chót vót của chiêm niệm. Ôi! Người anh em nhỏ bé thân mến, kể từ khi tôi được ban ơn để hiểu được tình yêu của trái tim Chúa Giêsu, tôi thừa nhận rằng tình yêu ấy đã xua tan mọi sợ hãi khỏi trái tim tôi. Việc nhớ lại những lỗi lầm của mình làm tôi khiêm nhường, thúc đẩy tôi không bao giờ dựa vào sức lực của mình vốn chỉ là sự yếu đuối, nhưng việc nhớ lại này càng nói với tôi về lòng thương xót và tình yêu nhiều hơn nữa”.[132]

137. Những nhà đạo đức muốn kiểm soát chặt chẽ lòng thương xót và ân sủng của Chúa có thể tuyên bố rằng Têrêsa có thể nói như vậy vì ngài là một vị thánh, còn một người bình thường không thể nói như thế được. Theo cách đó, họ loại bỏ khỏi linh đạo của thánh Têrêsa tính độc đáo tuyệt vời của nó, là điều phản ánh cốt lõi của Phúc Âm. Đáng buồn thay, trong một số nhóm Kitô hữu, chúng ta thường gặp cái cố gắng ép Chúa Thánh Thần vào một khuôn có sẵn sao cho họ có thể giữ mọi thứ dưới sự giám sát của mình. Tuy nhiên, vị Tiến sĩ Giáo hội sắc sảo này đã khiến họ im lặng và mâu thuẫn trực tiếp với quan điểm giản lược của họ bằng những lời rõ ràng sau đây: “Nếu tôi đã phạm tất cả mọi tội ác, thì tôi cũng luôn có cùng sự tín thác; tôi cảm thấy rằng toàn bộ núi tội lỗi ấy sẽ giống như một giọt nước ném vào lò lửa cháy rực”.[133]

138. Với Sơ Marie, người đã tạ ơn về tình yêu quảng đại của mình dành cho Chúa, thậm chí đã chuẩn bị để chấp nhận tuẫn đạo, Têrêsa đã trả lời chi tiết trong một lá thư trở thành một trong những cột mốc quan trọng của lịch sử linh đạo. Trang thư này cần được đọc đi đọc lại hàng ngàn lần vì chiều sâu, sự rõ ràng và vẻ đẹp của nó. Trong thư đó, Têrêsa giúp người chị mình, “Marie Thánh Tâm”, tránh tập trung lòng sùng mộ này vào sự đau khổ, vì một số người đã trình bày sự đền bù chủ yếu dưới dạng tích lũy các hy sinh và các việc thiện. Về phần mình, Têrêsa trình bày lòng tín thác như là của lễ tốt nhất và to lớn nhất, làm đẹp lòng Chúa Kitô: “Những ước muốn tuẫn đạo của em chẳng là gì cả; đó không phải là điều mang lại cho em lòng tín thác vô hạn mà em cảm thấy trong lòng mình. Nói thật, những ước muốn ấy là sự giàu có thiêng liêng làm cho người ta trở nên bất công, khi người ta an nghỉ trong chúng với sự tự mãn và tin rằng chúng là điều gì đó vĩ đại… Điều làm hài lòng [Chúa Giêsu], đó là Người thấy em yêu sự bé mọn và sự nghèo nàn của mình, niềm trông cậy bất khuất mà em đặt nơi lòng thương xót của Người… Đó là kho báu duy nhất của em… Nếu chị muốn cảm thấy vui sướng, cảm thấy thích thú với đau khổ, thì đó là chị đang tìm kiếm sự an ủi cho mình… Hãy hiểu rằng để trở thành hiến lễ tình yêu dâng Người, thì kẻ càng yếu đuối, kẻ không có khát khao hay nhân đức, thì sẽ càng phù hợp cho hoạt động của Tình yêu đầy sức thiêu đốt và biến đổi này… Ồ! Em muốn có thể làm cho chị hiểu được cảm giác của em biết bao!… Chính lòng tín thác và không gì ngoài lòng tín thác sẽ chắc chắn dẫn chúng ta đến với Tình Yêu”.[134]

139. Trong nhiều văn liệu của mình, Têrêsa nói về cuộc vật lộn của mình với những hình thức linh đạo tập trung quá mức vào nỗ lực của con người, vào công trạng cá nhân, vào việc dâng những hy sinh và làm một số việc nhất định để “giành được thiên đàng”. Đối với Têrêsa, “công trạng không cốt ở làm nhiều hay cho đi nhiều, mà đúng hơn, cốt ở đón nhận”.[135] Chúng ta hãy đọc lại một số bản văn đầy ý nghĩa sâu sắc này, trong đó Têrêsa nhấn mạnh điều này và trình bày nó như một phương tiện đơn giản và nhanh chóng để nắm lấy Chúa “nơi trái tim của Người”.

140. Với chị Léonie, Têrêsa viết: “Em chắc chắn với chị rằng Thiên Chúa tốt hơn nhiều so với những gì chị tin. Ngài hài lòng với một cái nhìn thoáng, một tiếng thở dài yêu thương… Còn em, em thấy rất dễ thực hành sự hoàn thiện vì em hiểu rằng đó là vấn đề nắm lấy Chúa Giêsu nơi trái tim Người… Hãy nhìn một đứa trẻ vừa quấy rầy mẹ mình… Nếu nó đến với mẹ, dang rộng đôi tay nhỏ bé, mỉm cười và nói: ‘Mẹ hôn con đi, con sẽ không làm thế nữa đâu’, liệu mẹ nó có thể không dịu dàng ôm chặt nó vào lòng và quên đi trò nghịch ngợm trẻ con của nó không? Đành rằng bà biết đứa con bé bỏng của mình sẽ lại làm thế vào lần tới, nhưng điều đó không quan trọng; nếu nó lại nắm lấy trái tim mẹ, nó sẽ không bị trừng phạt”.[136]

141. Tương tự, trong một lá thư gửi cho Cha Adolphe Roulland, Têrêsa viết: “Tất cả con đường của con là tín thác và yêu thương. Con không hiểu những tâm hồn sợ hãi một người bạn dịu dàng như vậy. Có những lúc, khi con đọc một số luận đề tâm linh trong đó sự hoàn thiện được cho thấy qua hàng ngàn chướng ngại vật, được bao quanh bởi một mớ ảo tưởng, tâm trí nhỏ bé tội nghiệp của con nhanh chóng mệt mỏi; con đóng cuốn sách uyên bác đang làm đầu con tan nát và làm khô héo trái tim con, và con cầm lấy Kinh Thánh. Thế là tất cả dường như sáng tỏ với con; một từ duy nhất mở ra cho tâm hồn con những chân trời vô tận, sự hoàn thiện dường như đơn giản với con. Con thấy rằng chỉ cần nhận ra sự trống rỗng của mình và phó thác chính mình như một đứa trẻ trong vòng tay của Chúa”.[137]

142. Trong một lá thư khác, Têrêsa liên hệ điều này với tình yêu thấy nơi một người cha: “Tôi không tin rằng trái tim của [một] người cha có thể cưỡng lại được lòng tín thác của đứa con, mà ông vốn biết sự chân thành và lòng yêu thương của nó. Cho dẫu ông hiểu rằng đứa con mình sẽ lại phạm cùng những lỗi lầm ấy nhiều lần, nhưng ông luôn sẵn sàng tha thứ cho nó, nếu đứa con luôn giữ lấy trái tim ông”.[138]

NHỮNG VANG ÂM TRONG DÒNG TÊN

143. Chúng ta đã thấy thánh Claude de La Colombière kết hợp kinh nghiệm tâm linh của thánh Margaret Marie với mục tiêu của Linh Thao. Tôi tin rằng vị trí của Thánh Tâm trong lịch sử Dòng Tên xứng đáng được đề cập cách ngắn gọn.

144. Linh đạo của Dòng Tên luôn đề xuất một “sự hiểu biết nội tâm về Chúa để yêu mến và theo Người trọn vẹn hơn”.[139] Trong các bài tập Linh Thao của ngài, thánh Inhaxiô mời gọi chúng ta hãy đặt mình trước Phúc Âm nói với chúng ta rằng “cạnh sườn [Chúa Kitô] bị ngọn giáo đâm thâu và máu cùng nước chảy ra”.[140] Khi những người tĩnh tâm chiêm ngắm cạnh sườn bị thương của Đấng chịu đóng đinh, Inhaxiô gợi ý rằng họ hãy bước vào trong trái tim của Chúa Kitô. Như vậy, chúng ta có một cách để mở rộng trái tim mình, được một người là “bậc thầy về tình cảm” khuyên bảo – theo cách nói của thánh Phêrô Faber trong một lá thư gửi cho thánh Inhaxiô.[141] Cha Juan Alfonso de Polanco đã lặp lại cùng một cách diễn đạt đó khi viết tiểu sử của thánh Inhaxiô: “Ngài [Đức Hồng y Gasparo Contarini] nhận ra rằng nơi Cha Inhaxiô, ngài đã gặp một bậc thầy về tình cảm”.[142] Các cuộc đàm thoại mà thánh Inhaxiô đề nghị là một phần thiết yếu của sự đào tạo trái tim, vì trong đó, chúng ta cảm nhận và nếm trải bằng trái tim một thông điệp Phúc Âm và trò chuyện về thông điệp đó với Chúa. Thánh Inhaxiô nói rằng chúng ta có thể chia sẻ mối quan tâm của mình với Chúa và tìm kiếm lời khuyên của Người. Bất kỳ ai theo các bài tập Linh Thao đều có thể dễ dàng thấy rằng chúng gắn với một cuộc đối thoại, từ trái tim đến trái tim.

145. Thánh Inhaxiô đưa những việc chiêm niệm của ngài lên đỉnh điểm dưới chân thập giá và mời gọi người tĩnh tâm cầu xin Chúa chịu đóng đinh với lòng cảm mến dạt dào, “như một người bạn với một người bạn, như một tôi tớ với chủ của mình”, để biết mình phải làm gì cho Người.[143] Diễn tiến của các Bài tập lên đến đỉnh điểm trong “Chiêm niệm để đạt được tình yêu”, điều này nảy sinh lòng biết ơn và việc dâng hiến “trí nhớ, sự hiểu biết và ý chí” của mình cho trái tim vốn là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo.[144] Việc chiêm niệm nội tâm này không phải là hoa trái của sự hiểu biết và cố gắng của chúng ta, nhưng phải được cầu xin như một món quà.

146. Chính kinh nghiệm này đã truyền cảm hứng cho sự kế thừa hùng hậu của các linh mục Dòng Tên đã nói rõ ràng về trái tim Chúa Giêsu: Thánh Phanxicô Borgia, thánh Phêrô Faber, thánh Anphongsô Rodriguez, Cha Álvarez de Paz, Cha Vincent Carafa, Cha Kasper Drużbicki và vô số những người khác. Năm 1883, các tu sĩ Dòng Tên tuyên bố rằng “Dòng Tên chấp nhận và đón nhận với tràn đầy niềm vui và lòng biết ơn nhiệm vụ thú vị nhất mà Chúa Giêsu Kitô đã giao phó, đó là thực hành, thúc đẩy và truyền bá lòng sùng kính trái tim thần linh của Người”.[145] Vào tháng 9 năm 1871, Cha Pieter Jan Beckx đã thánh hiến Dòng cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. Và như một dấu chỉ cho thấy lòng sùng kính Thánh Tâm vẫn là một yếu tố nổi bật trong đời sống của Dòng, Cha Pedro Arrupe đã lặp lại sự thánh hiến ấy vào năm 1972, với niềm xác tín được ngài giải thích như sau: “Vì vậy, tôi muốn nói với Dòng một điều mà tôi cảm thấy mình không thể im lặng. Từ khi vào tập viện, tôi luôn xác tín rằng điều chúng ta gọi là lòng sùng kính Thánh Tâm có chứa đựng một diễn tả có tính biểu tượng cho cái tinh túy nhất trong linh đạo Inhaxiô, và có một hiệu năng phi thường – ultra quam speraverint– cả về sự hoàn hảo riêng của nó lẫn về hoa trái tông đồ của nó. Tôi vẫn tiếp tục xác tín như vậy… Trong lòng sùng kính này, tôi gặp được một trong những nguồn mạch sâu xa nhất của đời sống nội tâm của mình”.[146]

147. Khi thánh Gioan Phaolô II thúc giục “tất cả các thành viên của Dòng phải nhiệt thành hơn nữa trong việc thúc đẩy lòng sùng kính này – là điều phù hợp với những nhu cầu của thời đại chúng ta hơn bao giờ hết” – ngài đã làm như vậy vì ngài nhận ra mối nối kết thâm sâu giữa lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô và linh đạo Inhaxiô. Bởi vì “niềm khao khát ‘biết Chúa một cách mật thiết’ và ‘nói chuyện’ với Người, từ trái tim đến trái tim, là đặc trưng của động lực tông đồ và linh đạo Inhaxiô, nhờ các Bài tập Linh Thao, và động lực này hoàn toàn phục vụ cho tình yêu của trái tim Thiên Chúa”.[147]

MỘT TRÀO LƯU RỘNG LỚN CỦA ĐỜI SỐNG NỘI TÂM

148. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô xuất hiện trở lại trong hành trình tâm linh của nhiều vị thánh, mỗi vị mỗi khác; ở mỗi vị, lòng sùng kính này đều mang những sắc thái mới. Ví dụ, thánh Vincent de Paul thường nói rằng điều Thiên Chúa mong muốn là trái tim: “Chúa chủ yếu đòi hỏi trái tim chúng ta – trái tim của chúng ta – và đó là điều cốt yếu. Làm sao một người không có của cải lại có công đức lớn hơn một người có nhiều của cải mà họ từ bỏ? Bởi vì người không có gì làm điều đó với tình yêu lớn hơn; và đó là điều Thiên Chúa đặc biệt mong muốn…”[148] Điều này có nghĩa là cho phép trái tim mình gắn kết với trái tim Chúa Kitô. “Có ân phúc nào mà một nữ tu không hy vọng nhận được từ Chúa khi mà nữ tu ấy hết sức cố gắng đặt trái tim mình kết hợp với trái tim của Chúa chúng ta!”[149]

149. Đôi khi, chúng ta có thể bị cám dỗ để coi mầu nhiệm tình yêu này như một di tích đáng ngưỡng mộ của quá khứ, một linh đạo hay ho thích hợp với những thời trước. Tuy nhiên, chúng ta cần thường xuyên tự nhủ rằng – như một nhà thừa sai thánh thiện đã từng nói – “trái tim thần linh này – trái tim đã để cho ngọn giáo của kẻ thù đâm thủng, để tuôn đổ qua vết thương thiêng thánh ấy các bí tích làm nên Giáo hội – là một trái tim không bao giờ ngừng yêu thương”.[150] Các vị thánh gần đây hơn, như thánh Piô Pietrelcina, thánh Têrêsa Calcutta và nhiều vị khác, đã nói về trái tim Chúa Kitô với lòng sùng mộ sâu sắc. Ở đây, tôi cũng muốn nhắc đến những kinh nghiệm của thánh Faustina Kowalska, những kinh nghiệm này đã giới thiệu lại lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô bằng cách nhấn mạnh đặc biệt đến sự sống vinh quang của Chúa Phục sinh và lòng thương xót của Người. Được truyền cảm hứng từ những kinh nghiệm của thánh nữ và từ di sản thiêng liêng của thánh Józef Sebastian Pelczar (1842-1924),[151] thánh Gioan Phaolô II đã liên kết chặt chẽ những suy tư của mình về lòng Chúa thương xót với lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô: “Giáo hội dường như tuyên xưng lòng Chúa thương xót và tôn kính lòng thương xót đó theo một cách độc đáo khi Giáo hội hướng mình đến trái tim Chúa Kitô. Thật vậy, chính việc đến gần Chúa Kitô trong mầu nhiệm trái tim Người sẽ cho phép chúng ta dừng lại ở điểm này của sự mặc khải về tình yêu thương xót của Chúa Cha, một mặc khải làm nên nội dung cốt lõi của sứ mệnh thiên sai của Con Người”.[152] Thánh Gioan Phaolô cũng nói về Thánh Tâm theo phương diện rất riêng tư, ngài thừa nhận rằng “Thánh Tâm đã nói với tôi từ khi tôi còn trẻ”.[153]

150. Tính phù hợp bền bỉ của lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô thì đặc biệt rõ ràng trong công cuộc loan báo Tin Mừng và giáo dục được đảm nhận bởi vô số dòng tu nam và nữ có nguồn gốc được đánh dấu bởi lòng sùng kính có tính Kitô học sâu sắc này. Việc liệt kê tên của tất cả các dòng tu này sẽ là một công việc vô tận. Chúng ta hãy chỉ xem xét hai ví dụ được lấy ngẫu nhiên: “Đấng sáng lập [thánh Daniel Comboni] đã khám phá ra trong mầu nhiệm trái tim Chúa Giêsu nguồn sức mạnh cho sự dấn thân sứ mạng thừa sai của mình”.[154] “Được cuốn vào những khao khát của trái tim Chúa Giêsu, chúng ta muốn mọi người phát triển về phẩm giá, trong tư cách con người và trong tư cách con cái của Thiên Chúa. Điểm khởi đầu của chúng ta là Tin Mừng, với tất cả những gì Tin Mừng đòi hỏi nơi chúng ta về tình yêu, sự tha thứ và công lý, và sự liên đới với người nghèo và những người bị thế giới loại trừ”.[155] Tương tự như vậy, nhiều đền thánh trên khắp thế giới được cung hiến cho trái tim Chúa Kitô tiếp tục là nguồn canh tân rất ấn tượng về cầu nguyện và về lòng nhiệt thành thiêng liêng. Tôi gửi lời chúc lành từ phụ đến tất cả những ai theo bất kỳ cách nào có liên quan đến những không gian này của đức tin và bác ái.

LÒNG SÙNG MỘ ĐỂ AN ỦI

151. Vết thương ở cạnh sườn Chúa Kitô, suối nguồn nước hằng sống, vẫn mở trong thân xác phục sinh của Đấng Cứu Thế. Vết thương sâu do ngọn giáo gây ra và vết thương của mão gai thường thấy trong các ảnh tượng về Thánh Tâm là một phần không thể tách rời của lòng sùng kính này, trong đó chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình hy sinh cho đến cùng. Trái tim của Chúa Phục Sinh bảo tồn những dấu hiệu của sự hiến mình hoàn toàn ấy, bao gồm những đau khổ dữ dội vì chúng ta. Do đó, thật tự nhiên khi các tín hữu muốn đáp lại không chỉ tình yêu tuôn tràn bát ngát này mà còn đáp lại cả nỗi đau khổ mà Chúa đã chọn gánh chịu vì tình yêu ấy.

Với Chúa Giêsu trên thập giá

152. Thật thích hợp việc khám phá lại một khía cạnh đặc biệt của linh đạo gắn với lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô, cụ thể là niềm khao khát bên trong muốn mang lại sự an ủi cho trái tim đó. Ở đây tôi sẽ không bàn về việc thực hành “đền bù”, điều mà tôi cho là phù hợp hơn với chiều kích xã hội của lòng sùng kính này sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo. Thay vào đó, tôi muốn tập trung vào lòng khao khát thường được cảm nhận trong lòng của các tín hữu trìu mến chiêm ngắm mầu nhiệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và kinh nghiệm nó như một mầu nhiệm không chỉ được tưởng nhớ song vẫn trở nên hiện diện với chúng ta nhờ ân sủng, hay nói đúng hơn, mầu nhiệm ấy cho phép chúng ta có mặt một cách thần nhiệm tại thời điểm của sự cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa, làm sao chúng ta lại có thể không mong muốn an ủi Người?

153. Đức Giáo hoàng Piô XI muốn đặt nền cho lòng sùng kính đặc biệt này trên nhận thức rằng mầu nhiệm cứu chuộc chúng ta bởi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô thì vượt trên mọi ranh giới của thời gian và không gian, nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hiến mình vì mọi tội lỗi, bao gồm cả những tội lỗi chưa phạm, bao gồm cả tội lỗi của chúng ta. Tương tự, những hành động chúng ta hiện đang dâng để an ủi Người, cũng siêu vượt thời gian, chạm đến trái tim bị thương của Người. “Nếu cũng vì tội lỗi của chúng ta, tuy là trong tương lai nhưng đã được thấy trước, tâm hồn Chúa Giêsu đã buồn rầu đến chết, thì không thể nghi ngờ rằng cùng lúc đó, Người đã nhận được một an ủi nào đó từ sự đền bù của chúng ta, cũng được thấy trước, tại thời điểm khi ‘một thiên thần từ trời hiện ra với Người’ (Lc 22,43), để trái tim Người, bị đè nặng bởi sự mệt mỏi và đau khổ, có thể gặp được sự an ủi. Và vì thế ngay cả hiện nay, theo một cách kỳ diệu nhưng chân thực, chúng ta có thể và phải an ủi Trái tim Cực Thánh ấy, nơi liên tục bị tổn thương bởi tội lỗi của những con người vô ơn”.[156]

Những lý lẽ của trái tim

154. Đối với một số người, có vẻ như khía cạnh sùng kính Thánh Tâm này thiếu một cơ sở thần học vững chắc, nhưng trái tim có lý lẽ của nó. Ở đây, cảm thức đức tin(sensus fidelium) nắm hiểu được điều gì đó huyền nhiệm, vượt quá luận lý của con người chúng ta, và nhận ra rằng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô không chỉ là một sự kiện của quá khứ, nhưng là một sự kiện mà chúng ta có thể chia sẻ thông qua đức tin. Đối với lòng đạo đức Kitô giáo, việc suy niệm về sự tự hiến của Chúa Kitô trên thập giá liên quan đến một điều gì đó nhiều hơn là chỉ tưởng nhớ đơn thuần. Niềm xác tín này có nền tảng thần học vững chắc.[157] Chúng ta cũng có thể thêm vào sự nhìn nhận tội lỗi của chính mình, mà Chúa Giêsu đã gánh lấy trên đôi vai bầm dập của Người, và sự bất cập của chúng ta trước tình yêu vượt thời gian đó, vốn luôn lớn hơn hết mức.

155. Chúng ta cũng có thể tự hỏi làm sao chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa của sự sống, Đấng đã sống lại từ cõi chết và đang ngự trị trong vinh quang, trong khi vẫn an ủi Người giữa những đau khổ của Người. Ở đây, ta cần nhận ra rằng trái tim phục sinh của Người vẫn giữ các vết thương như một ký ức thường hằng, và rằng hoạt động của ân sủng làm cho ta có thể kinh nghiệm điều vốn không bị giới hạn chỉ trong một khoảnh khắc của quá khứ. Khi suy ngẫm về điều này, chúng ta thấy mình được mời gọi bước vào một nẻo đường thần bí vượt qua những giới hạn của tâm thần chúng ta nhưng vẫn vững vàng dựa trên lời Chúa. Đức Giáo hoàng Piô XI nêu rõ điều này: “Làm sao những hành động đền bù này có thể mang lại sự an ủi hiện tại, khi Chúa Kitô đã ngự trị trong thiên đàng vinh phúc? Đối với câu hỏi này, chúng ta có thể trả lời bằng những lời của thánh Augustinô, rất phù hợp ở đây: ‘Hãy cho tôi một người biết yêu thương, và người ấy sẽ hiểu những gì tôi nói’. Bất kỳ ai có lòng yêu mến lớn lao đối với Thiên Chúa và nhìn lại quá khứ, đều có thể chăm chú suy ngẫm về Chúa Kitô, và nhìn thấy Người lao động vì con người, đau buồn, chịu đựng những khổ sở lớn nhất, ‘vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta’, gần như kiệt sức vì buồn bã, vì đau khổ, thậm chí ‘bị bầm dập vì tội lỗi của chúng ta’ (Is 53,5), và Người mang đến cho chúng ta sự chữa lành bằng chính những sự bầm dập đó. Càng suy ngẫm về tất cả những điều này, các tín hữu càng thấy rõ rằng tội lỗi của nhân loại, dù xảy ra khi nào, chính là lý do khiến Chúa Kitô bị nộp cho đến chết”.[158]

156. Những lời này của Đức Piô XI đáng được xem xét nghiêm túc. Khi Kinh Thánh tuyên bố rằng những tín hữu không sống theo đức tin của mình “đang đóng đinh Con Thiên Chúa một lần nữa” (Dt 6,6), hoặc khi Phaolô – dâng những đau khổ của mình vì lợi ích của người khác – tuyên bố rằng “trong thân xác mình, tôi đang hoàn thành những gì còn thiếu trong những thống khổ của Chúa Kitô” (Cl 1,24), hoặc một lần nữa, khi Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Người đã cầu nguyện không chỉ cho các môn đệ của Người lúc ấy, mà còn cho “những ai sẽ nhờ lời họ mà tin vào Con” (Ga 17,20), tất cả những tuyên bố này thách thức cách suy nghĩ thông thường của chúng ta. Chúng cho chúng ta thấy rằng không thể chia cắt hoàn toàn quá khứ khỏi hiện tại, bất kể tâm trí chúng ta thấy điều này khó nắm bắt đến đâu. Phúc Âm, trong tất cả sự phong phú của nó, được viết ra không chỉ để chúng ta suy ngẫm cầu nguyện, mà còn giúp chúng ta kinh nghiệm hiện thực của nó trong các hành động yêu thương và trong đời sống nội tâm của chúng ta. Điều này chắc chắn đúng trong liên quan đến mầu nhiệm về cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Những sự phân biệt tạm thời mà tâm trí chúng ta vận dụng dường như không thể bao hàm trọn vẹn kinh nghiệm đức tin này, vốn là nền tảng cả cho sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô trong đau khổ của Người, lẫn cho sức mạnh, sự an ủi và tình bạn mà chúng ta được hưởng với Người trong sự sống phục sinh của Người.

157. Như vậy, chúng ta thấy sự hiệp nhất của mầu nhiệm Vượt qua trong hai khía cạnh không thể tách rời và làm phong phú cho nhau này. Mầu nhiệm duy nhất, hiện thực bởi ân sủng trong cả hai chiều kích ấy, bảo đảm rằng bất cứ khi nào chúng ta dâng một số đau khổ của mình cho Chúa Kitô để an ủi Người, thì đau khổ đó được soi sáng và được chuyển hóa trong ánh sáng phục sinh của tình yêu Người. Chúng ta tham dự vào mầu nhiệm này trong cuộc sống của mình vì tiên vàn chính Chúa Kitô đã chọn chia sẻ sự sống đó. Người muốn cảm nghiệm trước, trong tư cách là Đầu, những gì Người sẽ kinh nghiệm trong Thân thể Người là Giáo hội: kinh nghiệm cả những vết thương lẫn sự an ủi của chúng ta. Khi chúng ta sống trong ân sủng của Thiên Chúa, sự chia sẻ lẫn nhau này trở thành một kinh nghiệm thiêng liêng cho chúng ta. Nói tóm lại, Chúa Phục sinh, bằng hoạt động của ân sủng, liên hết chúng ta một cách mầu nhiệm với cuộc khổ nạn của Người. Trái tim của các tín hữu, những người cảm nhận niềm vui của sự phục sinh, nhưng đồng thời cũng khao khát được chia sẻ trong cuộc khổ nạn của Chúa, nhận hiểu cuộc khổ nạn đó. Họ mong muốn được tham dự vào những đau khổ của Người bằng cách dâng lên Người những đau khổ, những chiến đấu, những thất vọng và những nỗi sợ hãi vốn là một phần trong cuộc sống của họ. Họ cũng không kinh nghiệm điều này như những cá nhân biệt lập, vì những đau khổ của họ cũng là sự tham dự vào đau khổ của Nhiệm Thể Chúa Kitô, Dân thánh lữ hành của Thiên Chúa, là đoàn dân tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô ở mọi nơi và mọi thời. Do đó, lòng sùng kính để an ủi không hề phi lịch sử hay trừu tượng; nó trở thành xương thịt trong cuộc hành hương của Giáo hội qua lịch sử.

Thống hối

158. Niềm khao khát tự nhiên muốn an ủi Chúa Kitô, bắt đầu từ nỗi buồn của chúng ta khi suy ngẫm về những gì Người đã phải chịu vì chúng ta, sẽ lớn lên cùng với sự chân thành nhìn nhận các thói xấu của mình, những hành động dại dột, những quyến luyến, đức tin yếu đuối, những tìm kiếm hão huyền của chúng ta, cùng với những tội lỗi thực sự của chúng ta, sự thất bại của trái tim chúng ta trong việc đáp lại tình yêu của Chúa và kế hoạch của Người dành cho đời sống chúng ta. Kinh nghiệm này chứng tỏ có sức thanh tẩy, vì tình yêu cần sự thanh tẩy của những giọt nước mắt mà cuối cùng sẽ khiến chúng ta khao khát Chúa hơn và ít ám ảnh về mình hơn.

159. Theo đó, chúng ta thấy rằng càng khao khát an ủi Chúa cách sâu xa, thì cảm thức “thống hối” chân thành của chúng ta càng sâu xa hơn. Thông hối “không phải là một mặc cảm tội lỗi khiến chúng ta nản lòng hay ám ảnh về sự tệ hại của mình, mà là một ‘sự đâm thấu’ hữu ích giúp thanh tẩy và chữa lành trái tim. Một khi chúng ta nhìn nhận tội lỗi của mình, trái tim chúng ta có thể được mở ra để Chúa Thánh Thần hoạt động, nguồn nước sự sống tuôn trào trong ta và khiến chúng ta rơi nước mắt… Điều này không có nghĩa là khóc lóc vì tự thương hại, như chúng ta thường có xu hướng làm thế… Rơi lệ thống hối có nghĩa là nghiêm túc ăn năn về việc làm Chúa đau buồn vì tội lỗi của mình; nhận ra rằng mình luôn mắc nợ Chúa… Cũng như những giọt nước có thể làm mòn đá, thì nước mắt cũng có thể dần làm mềm những trái tim cứng cỏi. Ở đây, chúng ta thấy phép lạ của nỗi buồn, ‘nỗi buồn cứu rỗi’ vốn mang lại sự bình an lớn lao… Như thế, thống hối không phải là công việc của chúng ta mà là một ân sủng, và như vậy, chúng ta phải tìm kiếm nó trong cầu nguyện.”[159] Điều này có nghĩa là “xin được buồn rầu với Chúa Kitô trong nỗi buồn của Người, được đau khổ cùng với Chúa Kitô trong nỗi đau của Người, được biết khóc và cảm nhận sâu sắc nỗi đau đớn mà Chúa Kitô đã chịu vì tôi”.[160]

160. Vì thế, tôi xin mọi người đừng ai coi thường lòng sùng kính sốt sắng của dân thánh trung thành của Thiên Chúa, những người trong lòng đạo đức bình dân của mình tìm cách an ủi Chúa Kitô. Tôi cũng khuyến khích mọi người hãy xem xét phải chăng trong một số cách thể hiện của tình yêu tìm cách an ủi Chúa thì có thể có sự hợp lý, sự thật và sự khôn ngoan hơn là trong những hành động yêu thương trên danh nghĩa, đầy tính toán, và lạnh lùng xa cách mà nhiều khi được làm bởi những người tự nhận có đức tin sâu sắc, tinh tế và trưởng thành hơn.

Chính mình được an ủi để an ủi người khác

161. Khi chiêm ngắm trái tim Chúa Kitô và sự tự hiến của Người ngay cả cho đến chết, bản thân chúng ta tìm thấy niềm an ủi lớn lao. Nỗi đau xót mà chúng ta cảm thấy trong lòng mình nhường chỗ cho lòng tin tưởng hoàn toàn, và cuối cùng, điều còn lại là lòng biết ơn, sự trìu mến, sự bình an; điều còn lại là tình yêu của Chúa Kitô ngự trị trong cuộc sống của chúng ta. Như thế, lòng thống hối “không phải là nguồn lo âu mà là nguồn chữa lành cho tâm hồn, vì nó hoạt động như một loại dầu xoa dịu vết thương tội lỗi, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận sự vuốt ve của Chúa”.[161] Những đau khổ của chúng ta được liên kết với đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá. Nếu chúng ta tin rằng ân sủng có thể nối lại mọi khoảng cách, thì điều này có nghĩa là Chúa Kitô, qua những đau khổ của Người, đã kết hợp chính Người với những đau khổ của các môn đệ mọi thời và mọi nơi. Như vậy, bất cứ khi nào chúng ta chịu đựng đau khổ, chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự an ủi nội tâm của việc biết rằng Chúa Kitô chịu đau khổ với chúng ta. Khi tìm cách an ủi Người, chúng ta sẽ thấy mình được an ủi.

162. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó, trong sự chiêm ngắm của mình, chúng ta cũng cần nghe thấy lời cầu xin khẩn thiết của Chúa: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta!” (Is 40,1). Như thánh Phaolô nói với chúng ta, Thiên Chúa an ủi chúng ta “để chúng ta có thể an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó, bằng sự an ủi mà chính chúng ta nhận được từ Thiên Chúa” (2Cr 1,4).

163. Điều này sẽ thách đố chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết sâu sắc hơn về chiều kích cộng đồng, xã hội và sứ mạng của mọi lòng sùng mộ chân thực đối với trái tim Chúa Kitô. Vì ngay cả khi trái tim Chúa Kitô dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, trái tim ấy cũng sai chúng ta đến với anh chị em mình. Trong những hoa trái của việc phục vụ, tức tình huynh đệ và sứ mạng mà trái tim Chúa Kitô thúc đẩy trong đời sống chúng ta, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành. Theo cách này, chúng ta đã đi hết một vòng tròn: “Cha Ta được tôn vinh bởi điều này, đó là anh em sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,8).

To be continued…

Nguồn: https://hdgmvietnam.com/

[83] Mishnah Sukkah, IV, 5, 9.

[84] Thư gửi Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, Paray-le-Monial (Pháp), 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, 7 tháng 10 năm 1986, tr. IX.

[85] Acta Martyrum Lugdunensium, trong EUSEBIUS OF CAESARIA, Historia Ecclesiastica, V, 1: PG 20, 418.

[86] RUFINUS, V, 1, 22, trong GCS, Eusebius II, 1, tr. 411, 13tt.

[87] THÁNH JUSTIN, Dial. 135,3: PG 6, 787

[88] NOVATIAN, De Trinitate, 29: PL 3, 994; x. SAINT GREGORY OF ELVIRA, Tractatus Origenis de libris Sanctarum Scripturarum, XX, 12: CSSL 69, 144.

[89] Expl. Ps. 1:33: PL 14, 983-984.

[90] x.. Tract. In Ioannem 61, 6: PL 35, 1801.

[91] Ep. ad Rufinum, 3, 4.3: PL 22, 334.

[92] Bài giảng trong Cant. 61, 4: PL 183, 1072.

[93] Expositio altera super Cantica Canticorum, c. 1: PL 180, 487.

[94] WILLIAM OF SAINT-THIERRY, De natura et dignitate amoris, 1: PL 184, 379.

[95] ID., Meditivae Orationes, 8, 6: PL 180, 230.

[96] THÁNH BONAVENTURA, Lignum Vitae. De mysterio Passionis, 30.

[97] Ibid., 47.

[98] Legatus divinae pietatis, IV, 4, 4: SCh 255, 66.

[99] LÉON DEHON, Directoire Spirituel des prêtres su Sacré Cœur de Jésus, Turnhout, 1936, II, ch. VII, n. 141.

[100] Đối thoại về Chúa Quan Phòng, LXXV: FIORILLI M.-CARAMELLA S., eds., Bari, 1928, 144.

[101] X. chẳng hạn, ANGELUS WALZ, De veneratione divini cordis Iesu in Ordine Praedicatorum, Pontificium Institutum Angelicum, Rome, 1937.

[102] RAFAEL GARCÍA HERREROS , Vida de San Juan Eudes, Bogotá, 1943, 42.

[103] THÁNH FRANCIS DE SALES, Thư gửi Jane Frances de Chantal, 24 tháng 4 năm 1610.

[104] Bài giảng Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, 20 tháng 2 năm 1622.

[105] Thư gửi Jane Frances de Chantal, Lễ Trọng Chúa Thăng Thiên, 1612.

[106] Thư gửi Marie Aimée de Blonay, ngày 18 tháng 2 năm 1618.

[107] Thư gửi Jane Frances de Chantal, cuối tháng 11 1609.

[108] Thư gửi Jane Frances de Chantal, khoảng ngày 25 tháng 2 năm 1610.

[109] Entretien XIV, về sự giản dị và thận trọng.

[110] Thư gửi Jane Frances de Chantal, ngày 10 tháng 6 năm 1611.

[111] THÁNH MARGARET MARIE ALACOQUE, Tự truyện, số 53.

[112] Ibid.

[113] Ibid., số 55.

[114] x. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Các qui tắc để tiến hành phân định các hiện tượng được cho là siêu nhiên, ngày 17 tháng 5 năm 2024 , I, A, 12.

[115] THÁNH MARGARET MARIE ALACOQUE, Tự truyện, n. 92.

[116] Thư gửi Sœur de la Barge, ngày 22 tháng 10 năm 1689.

[117] Tự truyện, n. 53.

[118] Ibid., n. 55.

[119] Bài giảng về Niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, trong Œuvres du R.P de La Colombière, t. 5, Perisse, Lyon, 1854, tr. 100.

[120] Linh thao ở Luân Đôn, 1-8 tháng 2 năm 1677, trong Œuvres du R.P de La Colombière, t. 7, Seguin, Avignon, 1832, tr. 93.

[121] Linh thao ở Lyon, tháng 10-tháng 11 năm 1674, ibid., tr. 45.

[122] HÁNH CHARLES DE FOUCAULD, Thư gửi Madame de Bondy, ngày 27 tháng 4 năm 1897.

[123] Thư gửi Madame de Bondy, ngày 28 tháng 4 năm 1901. X. Thư gửi Madame de Bondy, ngày 5 tháng 4 năm 1909: “Qua chị, tôi đã biết sự tôn thờ Bí tích Thánh Thể, các phép lành và Thánh Tâm”.

[124] Thư gửi Madame de Bondy, ngày 7 tháng 4 năm 1890.

[125] Thư gửi l’Abbé Huvelin, ngày 27 tháng 6 năm 1892.

[126] THÁNH CHARLES DE FOUCAULD, Suy niệm về Cựu Ước (1896-1897), XXX, 1-21.

[127] ID., Thư gửi l’Abbé Huvelin, ngày 16 tháng 5 năm 1900.

[128] ID., Nhật ký, ngày 17 tháng 5 năm 1906.

[129] Thư 67 gửi bà Guérin, ngày 18 tháng 11 năm 1888.

[130] Thư 122 gửi Céline, 14 tháng 10 năm 1890.

[131] Bài thơ 23, “Gửi Thánh Tâm Chúa Giêsu”, tháng 6 hoặc tháng 10 năm 1895.

[132] Thư 247 gửi l’Abbé Maurice Bellière, ngày 21 tháng 6 năm 1897.

[133] Những cuộc trò chuyện cuối cùng. Yellow Notebook, ngày 11 tháng 7 năm 1897, 6.

[134] Thư 197 gửi cho Sơ Marie Thánh Tâm, ngày 17 tháng 9 năm 1896. Điều này không có nghĩa là Têrêsa không dâng hiến những hy sinh, buồn phiền và rắc rối như một cách để liên kết bản thân với nỗi đau khổ của Chúa Kitô, nhưng là cuối cùng, Têrêsa quan tâm để không trao cho những điều này một tầm quan trọng mà chúng không có.

[135] Thư 142 gửi Céline, ngày 6 tháng 7 năm 1893.

[136] Thư 191 gửi Léonie, ngày 12 tháng 7 năm 1896.

[137] Thư 226 gửi Cha Roulland, ngày 9 tháng 5 năm 1897.

[138] Thư 258 gửi l’Abbé Maurice Bellière, ngày 18 tháng 7 năm 1897.

[139] x. THÁNH INHAXIÔ LOYOLA, Linh thao, 104.

[140] Ibid., 297.

[141] . Thư gửi Ignatius Loyola, ngày 23 tháng 1 năm 1541.

[142] De Vita P. Ignatii et Societatis Iesu initiis, ch. 8. 96.

[143] Linh thao, 54.

[144] Ibid., 230tt.

[145] TỔNG CÔNG NGHỊ THỨ THỨ BA MƯƠI BA CỦA DÒNG TÊN, Decree 46, 1: Institutum Societatis Iesu, 2, Florence, 1893, 511.

[146] Chỉ Ngài là niềm hy vọng của chúng ta. Văn bản về Trái tim Chúa Kitô, St. Louis, 1984.

[147] Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Tên, Paray-le-Monial, ngày 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, ngày 6 tháng 10 năm 1986, tr. 7.

[148] Huấn đức cho các Linh mục, “Sự nghèo khó”, ngày 13 tháng 8 năm 1655.

[149] Huấn đức cho các Nữ tử Bác ái, “Sự hy sinh, Thư từ, Bữa ăn và Các chuyến đi (Quy tắc chung, điều 24-27), ngày 9 tháng 12 năm 1657.

[150] THÁNH DANIELE COMBONI, Gli scritti, Bologna, 1991, 998 (n. 3324).

[151] Bài giảng trong Thánh lễ tuyên thánh, ngày 18 tháng 5 năm 2003: L’Osservatore Romano, ngày 19-20 tháng 5 năm 2003, tr. 6.

[152] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Dives in Misericordia (ngày 30 tháng 11 năm 1980), 1: AAS 72 (1980), 1219.

[153] ID., Giáo lý, ngày 20 tháng 6 năm 1979: L’Osservatore Romano, ngày 22 tháng 6 1979, 1.

[154] CÁC HỪA SAI TRÁI TIM CHÚA GIÊSU COMBONI, Quy luật đời sống, 3.

[155] TU HỘI THÁNH TÂM, Hiến pháp năm 1982, 7.

[156] Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 174.

[157] Hành động đức tin của người tín hữu không chỉ có mục đích là giáo lý mà còn là sự kết hợp với chính Chúa Kitô trong thực tại đời sống thần linh của Người (x. THÁNH THOMAS AQUINAS, Summa Theologiae, II-II, q. 1, a. 2, ad 2; q. 4, a. 1).

[158] PIÔ XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 174.

[159] Bài giảng trong Thánh lễ Truyền Dầu, 28 tháng 3 năm 2024: L’Osservatore Romano, 28 tháng 3 năm 2024, p. 2.

[160] THÁNH INHAXIÔ LOYOLA, Linh Thao, 203.

[161] Bài giảng trong Thánh lễ Truyền Dầu, ngày 28 tháng 3 năm 2024: L’Osservatore Romano, ngày 28 tháng 3 năm 2024, tr. 2.